CÔN
SƠN CA, CHỈ LÀ MỘT TIẾNG THỞ DÀI
Vũ
Bình Lục
Phiên âm:
Côn Sơn hữu tuyền / Kỳ
thanh lãnh lãnh nhiên / Ngô dĩ vi cầm huyền. / Côn Sơn hữu thạch / Vũ tẩy đài
phô bích / Ngô dĩ vi đạm tịch. / Nham trung hữu tùng / Vạn lý thuý đồng đồng / Ngô
ư thị hồ yển tức kỳ trung. / Lâm trung hữu trúc / Thiên mẫu ấn hàn lục / Ngô ư
thị hồ ngâm tiếu kỳ trắc. / Vấn quân hà bất quy khứ lai? / Bán sinh trần thổ
trường cao cốc / Vạn chung cửu đỉnh hà tất nhiên / Ẩm thuỷ phạn sơ tuỳ phận
túc.
Quân bất kiến Đổng
Trác hoàng kim doanh nhất ổ? / Nguyên Tải hồ tiêu bát bách hộc? / Hưu bất kiến
Bá Di dữ Thúc Tề / Thú Dương ngạ tử bất thực túc? / Hiền ngu lưỡng giả bất
tương mâu / Diệc các tự cầu hà sở dục / Nhân sinh bách tuế nội / Tất cánh đồng
thảo mộc / Hoan bi ưu lạc điệt vãng lai / Nhất vinh nhất tạ hoàn tương tục / Khâu
sơn hoa ốc diệc ngẫu nhiên / Tử hậu thuỳ vinh cánh thuỳ nhục? / Nhân gian nhược
hữu Sào Do đồ / Khuyến cừ thính ngã sơn trung khúc.
Dịch thơ:
BÀI CA CÔN SƠN
Côn Sơn có khe / Tiếng
nước chảy rì rầm, / Ta lấy làm đàn cầm. / Côn Sơn có đá, / Mưa xối rêu xanh đậm
/ Ta lấy làm chiếu thảm. / Trong núi có thông / Muôn dặm rờn rờn biếc một vùng
/ Ta tha hồ ngơi nghỉ ở trong. / Trong rừng có trúc / Nghìn mẫu in biếc lục / Ta
tha hồ ngâm nga bên gốc! / Ngươi sao còn chửa về đi? / Nửa đời bụi bặm hoài lăn
lóc / Muôn chung chín đỉnh có làm gì? / Nước lã cơm rau miễn tri túc!
Ngươi chẳng thấy: / Đổng
Trác ngọc vàng chất đầy nhà, / Nguyên Tải hồ tiêu tám trăm hộc? / Lại chẳng
thấy Bá Di với Thúc Tề / Thú Dương chết đói không ăn thóc? / Hiền ngu dù chẳng
giống nhau đâu, / Cũng đều muốn thoả lòng sở dục. / Người đời trong trăm năm / Rốt
cuộc như thảo mộc. / Vui buồn lo sướng đổi thay nhau, / Một tươi một héo vẫn
tương tục. / Cồn hoang lầu đẹp cũng ngẫu nhiên, / Chết rồi ai vinh với ai nhục?
/ Nhân gian nếu có bọn Sào Do / Khuyên hãy nghe ta ca một khúc!
Côn
Sơn ca của Nguyễn Trãi là bài thơ thể hiện tập trung tiêu biểu hồn cốt cái
thú lâm tuyền của người ẩn sĩ, đồng thời là những quan niệm về nhân sinh, về lẽ
tiến thoái (Xuất-xử) của nhà Nho không
gặp thời.
Ta, là nhân vật trữ tình chủ thể. Nhân vật
này đôi khi cũng tự phân thân, để ta đối
diện với chính ta, như một thủ pháp
nghệ thuật thường thấy trong văn học nói chung.
Đoạn đầu, tả cảnh rừng suối Côn Sơn và qua đó là sự hoà quyện,
tương thích giữa thiên nhiên và con người, ở đây là tác giả, với tư cách là nhân
vật trữ tình chủ thể.
Côn Sơn có khe / Tiếng nước chảy rì rầm / Ta
lấy làm đàn cầm. Như thế là tiếng nước
chảy từ khe suối, không biết có từ bao giờ, cứ rì rầm hát ca không dứt, ngày cũng
như đêm, Ta lấy tiếng suối ấy làm tiếng
đàn. Đó là thanh âm trầm bổng của núi rừng, của suối khe réo rắt trong veo phổ
mãi vào trời đất.
Côn Sơn có đá / Mưa xối rêu xanh đậm / Ta
lấy làm chiếu thảm. Rêu phủ trên đá làm chiếu, làm thảm để nằm nghỉ ngơi.
Trong núi còn có muôn dặm xanh biếc rừng thông, ta ở trong đó, tha hồ ngơi mghỉ. Lại còn nghìn mẫu trúc xanh biếc trong
rừng, tha hồ ngâm nga bên gốc…
Vậy là thiên
nhiên đã quá hào phóng, ban tặng cho con người vô vàn những suối khe, những thảm
đá phủ xanh rêu, những bát ngát rừng tùng, những xanh tươi ngàn mẫu trúc…Và ta,
như một chủ nhân thực sự, tự do, làm bạn với thiên nhiên và hơn thế, làm chủ
thiên nhiên, làm chủ chính mình.
Đoạn thơ cũng biểu hiện sự đắm say hoà điệu của tâm hồn thi
nhân trước vẻ đẹp mộng mơ tinh khiết của
núi rừng. Có cái nồng thắm thiết tha say đắm. Có cái ung dung tự tại, phong lưu
thoát tục…
Bốn câu tiếp
đó, tự đối diện với chính mình, chất vấn chính mình: Ngươi sao còn chửa về đi / Nửa đời bụi bặm hoài lăn lóc / Muôn chung
chín đỉnh có làm gì? / Nước lã cơm rau miễn tri túc!
Một câu hỏi
cho chính mình, rằng Côn Sơn quê nhà đẹp như thế, có thể sống cuộc đời tự do với
rừng suối, chẳng phiền lụy đến ai, cũng chẳng cần phải cầu cạnh đến ai, chẳng
phải phục dịch ai… Vậy mà đã quá nửa đời người lăn lóc với gió bụi rồi, sao vẫn
còn cấn cái lăn tăn làm gì mà chửa chịu về?
Muôn chung chín đỉnh có làm gì? Mựợn tích xưa (Vạn chung cửu đỉnh) để chỉ quan to, ăn lộc muôn thùng thóc, nghĩa là
quan thượng phẩm, vinh hoa phú quý đã vào hàng bậc nhất rồi. Cửu đỉnh (chín cái đỉnh), chỉ ngôi vua, có cả thiên hạ trong tay, của cải và quyền lực
đều ở mức tột đỉnh… Người ta ở đời lao tâm khổ tứ, vào sinh ra tử, chỉ vì những
cái gọi là Muôn chung nghìn tứ ấy thôi,
nhưng rốt cục để làm gì, khi mà sự tồn tại của con người cũng chỉ có giới hạn? Muôn chung cửu đỉnh, đâu có phải là sự vĩnh
cửu? Vậy cả đời lăn lóc khổ sở vì nó để làm gì? Thà rằng nước lã cơm rau, thế cũng
là đủ, và biết thế là đủ (tri túc). Đó
là những lời phản biện chính mình, cũng chính là thực tế, là quy luật tồn tại của
vật chất, là “Biện chứng của tự nhiên” vậy!
Phần tiếp
theo, lại dẫn những ví dụ cụ thể, minh chứng cho cái lẽ Muôn chung cửu đỉnh có làm gì ở trên. Ví như Đổng Trác vàng ngọc
chất đầy nhà, làm đến Tể tướng, nắm cả thiên hạ nhà Hán trong tay, thế mà
cuối cùng cũng bị Lã Bố giết, chết rất thảm thương. Lại ví như Nguyên Tải đời Đường, làm đến Trung thư
thị lang, tham nhũng, của cải chất đầy nhà, hồ
tiêu tám trăm hộc, cuối cùng cũng bị giết. Đó là những kẻ tham mà ngu. Nhưng
cũng có những người được xem là hiền, như Bá Di với Thúc Tề, không chịu ăn thóc
nhà Chu, để giữ lòng trung với triều trước, bỏ vào núi Thú Dương, sau chết ở đó.
Tác giả bình luận: Hiền ngu dù chẳng giống
nhau đâu / Cũng đều muốn thoả lòng sở dục!
Cuối cùng, sau những đúc kết,
chiêm nghiệm về việc đời, lại quay về than thở. Tác giả viết tiếp bài ca: Người đời trong trăm năm / Rốt cuộc như thảo
mộc, rồi cũng héo tàn như cây cỏ mà thôi! Thân cát bụi lại trở về cát bụi,
có chi mà rộn! Những buồn lo, sướng khổ
đổi chỗ cho nhau, như vật đổi sao dời, xưa nay vẫn thế. Nguyễn Trãi có lần
nói rằng Hoa thường hay héo, cỏ thường
tươi! Bây giờ thì Một tươi một héo vẫn tương tục, chả có gì
lạ. Thế nên:
Cồn hoang lầu đẹp cũng ngẫu nhiên,
Chết rồi ai vinh với ai nhục?
Quả là “Thế sự du du
nại lão hà / Vô cùng thiên địa nhập hàm ca” (Đặng Dung). Cái lẽ của trời đất
là muôn thuở, cái lẽ của cõi người sinh diệt, cũng là muôn thuở vậy, cần gì phải
phân vân tính toán chi nhiều?
Nhân gian ví có bọn Sào Do
Khuyên hãy nghe ta ca một khúc!
Đó là hai câu kết của Bài
ca Côn Sơn. Ở chốn nhân gian này, ví như có bọn Sào Phủ và Hứa Do, tức những
bậc cao sĩ ở thời xa xưa trong lịch sử Trung Quốc, thì Hãy nghe ta ca một khúc! Sào Phủ và Hứa Do coi khinh quyền lực và
danh vọng, vua Nghiêu nhường ngôi cho, cũng không thèm nhận. Giả sử, ở nhân
gian có bọn người cốt cách thanh cao như thế, thì hãy nghe ta ca một khúc! Vậy đó là khúc ca gì? Ca ngợi phẩm giá của
các cao sĩ Sào Phủ và Hứa Do chăng? Quả có thế! Muốn noi theo tấm gương của các
vị tiền bối ấy chăng? Quả đúng thế! Muốn mau chóng rũ bỏ tất cả mà về với rừng
suối Côn Sơn chăng? Cũng đúng thế!
Nhưng Nguyễn
Trãi vốn là một nhà Nho luôn ôm ấp lý tưởng đại dụng. Ông muốn đem hết tài năng
của mình phục vụ đất nước, cho đến sức tàn lực kiệt. Tiếc thay, Thế gian biến cải vũng nên đồi (Nguyễn Bỉnh
Khiêm) thời thế đổi thay, lòng người biến đổi, nông sâu hiểm độc khó lường. Và Hoa
thường hay héo cỏ thường tươi! Ức Trai không có chỗ đứng, không có cơ hội để
thi thố hết tài năng, đành ôm hận bất lực. Nhàn tản, ẩn dật, yếm thế, vốn không
phải là bản tính của Ức Trai. Ông chỉ thể hiện nó như một cách tự tiêu khiển,
hoàn toàn bất đắc dĩ, bởi không biết làm gì hơn! Bài ca Côn Sơn, do đó, chỉ có thể xem như một tiếng thở dài của một
người anh hùng thất thế mà thôi!
V.B.L
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét