CÂY TRÈM
(Tản văn)
ĐƯỜNG VĂN
Một
sáng chủ nhật đẹp trời, ông bạn vong niên Hà Nguyên thôn Đông nhắn tin điện
thoại, mời đến thưởng thức cà phê mới. Bên tách cà phê chồn, đen
(đứa cháu từ Đà Lạt gửi biếu) đặc sánh, nóng hổi, tỏa hương thơm
ngào ngạt, tôi lắng nghe ông Trèm
học thời nay của làng phê
bình mấy bài tản văn tôi mới viết.
- Viết về những đặc sản văn hóa
làng Trèm ta như chú đã viết, cứ ý tôi thì hãy còn sơ sài, thiếu
sót lắm! Mấy bài Lễ hội Đình, ao,
cổng, đường… đều cần bổ khuyết một số chi tiết, sự việc chưa
chính xác. Chẳng hạn như…
Tôi lập tức giở giấy bút, chăm
chú ghi chép những lời chỉ bảo vàng ngọc của ông anh hiểu nhiều
biết rộng. Thấy tôi chân thành học hỏi, cầu tiến, ông Hà càng nói
càng sôi nổi, đầy tâm huyết:
-
Nói đến Hồn Trèm, không thể bỏ qua Điếm Trèm. Chú có biết tổng cộng
làng ta có bao nhiêu ngôi điếm không?
-
Em chịu!
-
Ấy đấy! Lứa tuổi
chú thì đã làm sao tường tận được chuyện này! Để tôi kể chú nghe…
Chiêu ngụm cà phê, hít một hơi
thật sâu thuốc lá cũng tẩm cà phê, ngửa mặt thở khói một cách khoan
thai, Nguyên Tử lại tiếp tục một hồi cho tôi hay nhiều chuyện mới lạ,
kỳ thú về điếm làng Thụy Phương xưa. Lúc sau, để tận dụng thời gian,
tôi chuyển đề tài:
-
Theo anh, nếu viết
về cây làng mình thì sao?
Hà Nguyên thoáng cau mày, nhưng lại gật gù ngay:
-
Nói một cách
khách quan thì cây cối làng Trèm xưa nay không có gì thật đặc sắc,
đặc biệt nổi bật so với các làng chung quanh. Như cây gạo Phú Xá đón Bác Hồ về Hà Nội, ghé qua, ở tạm
Phú Thượng 1, 2 ngày cuối tháng 8 – 1945; cây đa Bỏi bờ bên kia
Nhĩ Hà, từ bên mình trông sang vẫn thấy mờ xanh; cây đa Giàn, trùm bóng khắp cái gò to sang cả những mảnh
ruộng liền kề; cây đa Cổ Loa mối
xông, mọt đục gốc, thân thành cái hốc
lớn. Dân chạ Chủ lập am thờ công
chuá Mỵ Châu; cây hoàng lan cổ thụ
Trường Vẽ che mát bao nhiêu thế hệ học trò… Phải! Cây cối làng ta
xưa nay chưa có lão thụ, quý mộc nào tầm cỡ như thế!... Nhưng, nếu
tìm hiểu kỹ, cũng có thể viết thành một bài tản văn không đến nỗi
gầy guộc đâu! Vậy chú có biết gì về cây đa cỗi chùa Trèm? Cây vóc
đình Trèm? Cây gạo Cầu Sông? Cây muỗm vườn cụ Mạch? Cây dừa vườn cụ
Quát?? Về lũy tre Thụy Phương?...
Thực ra,
tôi có thể trả lời gần hết mấy câu hỏi dồn liền có vẻ truy bài ấy,
nhưng lại cứ lắc đầu ngồi im, để khơi nguồn những câu chuyện cây,
chuyện người làng Trèm xưa được ông anh ngoại thất thập hào hứng kể
lại …
Để câu
chuyện đỡ đi cái tính độc thoại đơn điệu, thi thoảng tôi lại chêm vào
1, 2 câu hỏi nhỏ khêu gợi hay chuyển hướng.
-
Có lẽ đau,
tiếc nhất, với tôi (HN) là sự kiện sét đánh đổ cây đa cỗi trước cổng chùa Hàm Long! Câu tục ngữ Việt: Cây đa, bến nước, sân đình (chùa)
đã nêu 3 cảnh quan tiêu biểu và đặc trưng cho tính cộng đồng làng Việt, của nông thôn Việt Nam là hết
sức đúng đắn, sâu sắc. Lão đa cổ thụ có từ đời nào, không chỉ lứa
tuổi chúng tôi, mà kể cả thế hệ ông, cha tôi lớn lên đã thấy sừng
sững bên bờ giếng đất (mắt rồng), trước cổng chùa rồi. Nghe ông nội
kể lại, hồi chưa bị lưỡi tầm sét của Thiên Lôi phạt ngọn vào một
đêm mưa bão, gió giật đùng đùng, sấm sét liên hồi kỳ trận, cây đa ấy
vốn cao lắm, cao lắm! Đứng trên Cầu Sông mà vẫn phải ngước lên nhìn
mãi chưa tới đỉnh vòm lá sum suê. Rễ chùm, rễ phụ lòng thòng, quấn
quýt. Rễ to, rễ vừa cắm xuống đất như những thân đa khác nhỏ hơn. Có
đến vài mươi thân đa - rễ đa như thế châu tuần quanh thân chính. Nét
đặc biệt nữa, là quanh gốc đa, và lưng lửng thân đa, các cụ treo lủng lẳng những chiếc bình vôi (bình đựng vôi để ăn trầu
bằng sứ hoặc sành nung) sù sì, xám mốc bụi thời gian. Một bàn thờ thần nho nhỏ được ai đó,
tự bao giờ, thiết lập ngay sát gốc đa, không mấy khi không nghi ngút hương
đèn. Thần cây đa, ma cây gạo, cú, cáo cây đề. Nhưng lạ một
điều là cây đa cổng chùa này to cao, hùng vĩ và già cả thế, hẳn
Thần Đa thiêng lắm! Các cụ già trong làng có việc đi qua đây, nếu không
có việc thật gấp vội, đều dừng lại, đến trước ban thờ, vái mấy
vái cực kỳ kính cẩn. Còn lũ trẻ con làng thì thích chơi nghịch
quanh gốc đa, bám rễ, trèo lên tận cành cao vót, phá tổ chim, lấy
trứng, chơi nú tìm, không chỉ
giữa trưa nắng chang chang mà cả những đêm trăng sáng, trăng mờ, chỉ
thấy thích thú, tự do chứ không hề
bận tâm đến thần ma chi hết!
Bên
cạnh gốc đa cỗi, sát cổng chùa, cụ Vụng xóm Đông Trù dựng 1 quán
nước tranh tre xinh xắn. Cụ chủ quán lọng khọng lưng còng, đon đả mời
khách – hầu hết là con cháu trong làng đi làm đồng về, rẽ vào giải
khát bằng bát nước chè xanh, bát nước vối hoặc chén hạt mít rượu
tăm, ăn điếu thuốc lào Tiên Lãng chính hiệu, hút điếu thuốc lá cuộn
vàng thơm…cho ráo mồ hôi, đỡ cơn mệt nhọc bởi công việc nhà nông vất
vả dưới đồng suốt từ tinh mơ mờ đất đến giờ. Đói nữa thì tạm lót
dạ bằng quả chuối tây, chuối tiêu trứng cuốc ngọt lừ, vài cái kẹo
bột, kẹo vừng, kẹo lạc, bánh đa ròn tan, bùi ngậy hoặc tấm bánh
dày, bánh chưng, bánh nếp, bánh tẻ … lúc nào cũng sẵn bày trên mặt
chõng tre lên nước, mặt nan bóng như sừng. Thế là dưới bóng đa xanh,
bên cổng chùa cổ kính, trước làn nước long lanh giếng làng, nhiều khi
rôm rả, râm ran bao nhiêu là chuyện mùa màng, làng xóm buồn vui, cởi
mở, chia sẻ, cảm thông, nghĩa tình ấm cúng giữa cụ quán và bà con nông
dân làng Trèm.
Vậy mà, thế gian biến đổi khó
lường! Lại một đêm mưa to gió lớn, sấm chớp đùng đoàng. Cây đa cỗi
rung rinh, lay lắc mạnh, sau một tia chớp lóe xanh lè, một tiếng nổ
khủng khiếp, bất thần bật gốc, đổ ầm, vắt ngang lòng giếng đất.
Thân, cành, lá xã xượi, run rẩy, đau đớn trong cơn hấp hối, đành cam
phận hứng chịu cơn giận dữ vô cớ của Trời.
Làng Trèm buồn nhớ lão đa cố
tri, ngẩn ngơ như có đại tang chung dễ đến mấy năm trời. Riêng tôi, thì
không sao quên được! Mỗi lần đi qua đường chùa, cổng chùa, nhìn cảnh
giếng chùa biến thành ao đấu, rồi bị lấp bằng; chỉ còn ao chùa tù
đọng, nước vẩn xanh ngầu, quán cụ Vụng cũng giỡ bỏ từ năm nảo năm
nào, thay vào đó là đoạn tường bao cao nghệu, 1 cột điện bê tông ghép
đôi án ngữ, che kín một vế câu đối cổng chùa!? Nơi đồng Trèm thênh
thoáng trước cổng chùa nay là khu định cư của xóm Tân Lập. 2 ngôi mộ
cụ Sãi họ tôi cũng bị vây bao bởi các nhà dân chung quanh rồi!…Tôi
bỗng muốn ngâm lại 2 câu thơ nặng mùi hoài cựu:
Đâu cây đa cỗi bên chùa vắng?
Nhớ cảnh ao bèo gió lạnh sang!
Khoảng trên dưới hai chục năm lại
nay, làng Trèm ta mới gây trồng lại được 2 cây đa mới. 1 cây ở bên
phải Gảnh Đình, một cây ở giữa nghĩa trang xã Thụy Phương. Đa là
giống cây cực khỏe, dễ tính lại gặp đất tốt, nên lớn rất nhanh. Bây
giờ cả hai cũng đã có dáng dấp cổ thụ với bộ rễ xùm xòa, tán
xòe rộng. Cây thì che mát cả một nửa Gảnh Đình. Cây thì cùng với
cây hương Thổ địa, che chở hàng trăm ngôi mộ chung quanh. Nhưng tán lá
xanh mỡ, thân đa nhẵn nhụi màu nâu sáng đã tự khai rằng còn phải
nhiều chục năm nữa nhị đa này mới
xứng danh cổ thụ của làng.
- Thế còn
cây gạo Cầu Sông?
- À, cây gạo Cầu Sông cũng bị đổ (hay bị chặt bỏ để bảo vệ
sự an toàn cho cầu – cống?!) đã từ lâu. Chao ôi! Cây gạo cao vời ngự
ngay trên đỉnh dốc lên cầu phía bờ nam sông Đào – sông Nhuệ. Nhìn từ
dưới đồng lên, từ dưới đê làng Vẽ, Nhật Tảo nhìn lên, thấy đẹp như
một ngọn cờ xanh hòa bình lớn, với muôn ngàn lá bồ câu nhỏ xíu tung
bay phần phật trong gió ngày đêm, như ngọn hải đăng trên biển báo hiệu
khách bộ hành, thủy hành, rằng đã tới hoặc đã qua địa phận làng
Trèm - xã Thụy Phương. Cây gạo Cầu Sông cùng với cây gạo Cầu Đồ, cây
gạo Cầu Gạo, cây gạo cổng chùa sau này (cũng bị bão quật đổ!) có
thể hợp thành hàng gạo một thời liệt oanh của làng Trèm ta ấy chứ!
Cuối xuân, đầu hè, khoảng tháng 3 – 4, chiều mát, thỉnh thoảng dõi
mắt xem con bò sừng cán bèo, mình hổ đang gậm cỏ phía nào, tựa lưng
vào thành tường hậu Cầu Đồ, dim mắt ngắm trời chiều xanh ngát bỗng thấy
phơi phới ngang qua những bông gạo bay trắng nõn trắng nà. Cả cây gạo
cơ hồ như được ai thắp trăm ngàn ngọn nến nhỏ hồng rực, lung linh.
Rút cây sáo tre thổi 1 khúc Lý hoài
nam, hay Trên đường chiến thắng, cố học mót cách đánh lưỡi,
rung lưỡi của cụ Phan, ông Thìn*. Tiếng sáo trong vắt, véo von, thập
thững bay khắp đồng chiều mênh mang. Thấy mình cứ nên mãi mãi là chú
bé mục đồng chăn bò cho bố mẹ.
- Thế vườn đình Trèm ta không có
cây nào đáng nể hay sao? Tôi lại hỏi, xoay hướng câu chuyện.
- Đình ta có dãy cây vải vườn sau và cây
vóc ở góc trái sân trước là đáng chú ý. Mua hoa nở rộ: hoa vóc,
hoa vải vàng rực, trắng muốt tỏa thơm quyện hòa với mùi hương cúng
lễ làm bầu không khí đình trung lâng lâng, thanh khiết, vô cùng dễ
chịu. Mùa quả chín thì khắp trong đình, ngoài đình ríu ran tiếng tu
hú trên cành cao, cành thấp, cành bổng, cành la. Loài chim đặc biệt
nghiện vị ngọt thanh vải chín không biết từ đâu, từng đàn chia nhau
đậu trong những vòm lá xanh, quả đỏ, vừa mổ, rỉa thịt múi, hút
nước vải ngọt lừ vừa kêu vang khắc khoải trong sung sướng, vì được
thưởng thức lộc trời ban. Vườn sau đình cũng có cây muỗm cổ thụ, nhưng theo tôi, thiêng nhất có lẽ vẫn là
cây muỗm đại trong vườn trước nhà cụ Mạch xóm Dốc Bạc, thôn Đình.
Cây muỗm hàng trăm năm tuổi, ngọn
cao chót vót như chọc trời, bên cạnh là một ngôi miếu nhỏ, nghe nói
rất thiêng. Tôi vẫn nhớ như in buổi lễ
tạ của gia đình bà ngoại tôi tại miếu ấy do cụ Tư Bói chủ lễ.
Tấm màn cửa miếu được vén cao. Ban thờ khói hương nghi ngút, đèn nến
sáng choang. Cụ chủ lễ khăn lượt, áo the thâm, quỳ trước, cả nhà, từ
gia chủ đến con cháu, lần lượt quỳ sau. Cụ Tư khấn, lễ, hưng, bái một hồi, lại nhúng cành
lá muỗm vào bát nước bể, hua hua mấy vòng rồi vẩy ra tứ phía,
miệng hú hú những tiếng rợn
người. Mọi người quỳ rạp, khấu đầu, lầm rầm theo: A di đà Phật! Trong
tưởng tượng ngây thơ của đứa trẻ lên 10 hồi đó: Hình như các vị
Thánh Thần từ trên trời cao sẽ hạ giới, dừng nghỉ trên ngọn muỗm,
rồi bay tới ban thờ, nhận lễ cầu và phù hộ, độ trì cho bà ngoại,
cậu mợ, chú dì, bố mẹ và anh em chúng tôi. Một chiếc lá muỗm héo vàng,
rụng vèo trước mặt thầy cúng. Nhưng cụ già nhận ra ngay bằng đôi tai
cực thính của người khiếm thị. Đón chiếc lá rơi, cụ nhúng nhẹ vào
bát nước rồi lại vẩy liên tiếp lên đầu chúng tôi, sịt soạt: - Lạy Thánh phù hộ! Lạy Thánh mớ bái! Cầu Ngài gia ơn phù hộ
gia đình chúng con!
Trên cao hương mùi hoa muỗm thoang
thoảng, cánh lá khẽ lay rì rào, rì rào…
- Nhưng thôi, chuyện đã có vẻ hơi
dài, để kết thúc, tôi kể chú nghe mấy câu về lũy tre làng Trèm ta,
nên chăng?
- Nên quá! Nhưng xin hỏi ông anh 1
câu đã.
- ?
- Vì sao anh lại viết bài thất
ngôn tứ tuyệt Tre làng như vầy:
Cả làng còn một búi tre còm,
Bên nhà, giáo Bối đứng lom khom.
Chiều chiều, nắng tắt, chim về tổ,
Gieo nặng lòng ai một nỗi buồn?!
Hà Nguyên xuống giọng trầm, chậm
hẳn như không hoàn toàn trò chuyện với tôi mà anh đang tâm sự với
chính mình:
- Tâm trạng ấy, nói thật với
chú, vẫn cứ đeo đẳng trong tôi đến tận hôm nay và chưa biết tới bao
giời mới hết. Có lẽ đến tận khi héo
sữa, ra Gò Cao hay đợi ngày sang tiểu chăng? Bởi vì, cảnh cây
Trèm, tre Trèm vẫn đúng như 2 câu đầu bài thơ tôi tả. Mặc dù tết trông cây nào trong nhiều năm
lại nay, các vị lãnh đạo xã cũng phát động rất rầm rộ. Và kết
quả cũng kha khá. Chẳng hạn như rặng tre xanh mướt đang vươn mạnh liền
một dải từ Cầu Sông cho tới Gảnh đình. Nhưng dù sao đó vẫn là phía ngoài, biên cương của làng.
Làm sao khôi phục được lũy tre bắt đầu từ bờ ao Sen, sát vườn nhà
cụ Tạc, cụ Trù, ông Sứ, kéo qua vườn nhà ông Vần, ông Chuyển, vòng
qua ao cụ Quát, ao ông Cảnh, qua nhà cụ Thu, ông Yên, cụ Thỉnh, ông Bối,
ông Tuyên, cụ Bông… áp sát đường Chùa? Rồi một dải lũy tre chen khít,
rậm rịt áp sát thân đê từ chùa Hàm Long qua các nhà ông Đàn, ông
Đạo… vòng xuôi tận dốc Ngõ Đồng?!
Thuở ấy làng Trèm đúng là làng tôi xanh bóng tre (Văn Cao),
chiều chiều tiếng chuông chùa ngân nga, êm ả, thanh bình. Lũy tre, cổng
làng, hệ thống điếm canh là đặc trưng tiêu biểu thứ hai của làng quê
Việt: tính tự trị khép kín (đối
lập mà thống nhất với tính cộng
đồng). Mặt trái của đặc tính này đã rõ. Nhưng mặt phải của nó
cũng cần được ghi nhận đúng mức. Làng Trèm trong nửa đầu thế kỷ 20
nổi tiếng là làng thượng võ,
làng dám chống cướp, đánh cướp và
thắng cướp, ít nhất là 3 trận ròn rã. Mà một trong những nguyên
nhân quan trọng là nhờ sự kín đáo, vững chắc của những lũy tre làng,
những chiếc cống làng kiên cố, vững chắc tựa pháo đài đã khiến nội bất xuất (nếu không muốn) ngoại bất nhập (muốn cũng chẳng
được!).
Lũy tre làng bị chặt bỏ, đánh
tận gốc hầu hết, thay bằng tường bao chôn cọc sắt, chăng dây thép gai,
hoặc căm mảnh chai nhọn hoắt. Có cái gì nhang nhác như tường quanh
trại giam, ấp chiến lược ở miền Nam những năm chưa giải phóng.
Lũy tre, rặng tre làng đu đưa kẽo
kẹt trong những trưa hè nắng lửa. Đang từ ngoài đồng hừng hực nắng,
vừa bước qua cổng làng, bàn chân trần đi trên con đường gạch đỏ lát
nghiêng, dưới vòm lá tre mát rười rượi mới thấy cái hạnh phúc được
ở làng quê lên đến ngần nào. Mắc võng dưới bụi tre ngà, phe phẩy
cái quạt nan hay quạt thước, nghe gù gù con chim gáy béo nung núc
thấp thoáng trên ngọn, thiếp ngủ lúc nào không hay…
Dưới bụi tre rậm rịt, tua tủa gai
ở góc vườn, bờ ao xóm Đông Quan thượng, có ai ngờ lại được đào
thành căn hầm bí mật bao năm gia đình quần chúng nuôi giấu cán bộ về
hoạt động bí mật, gây cơ sở ở làng tề tạm bị chiếm. Chỉ đến 1
buổi chiều đông năm 1951, vì có tên phản bội khai báo, bọn Pháp và
lũ lính ngụy bất ngờ mở cuộc càn dữ dội vào làng, dùng thuốn
nhọn xăm đúng cửa hầm. Kiên quyết không chịu rơi vào tay giặc, 3 đồng
chí cán bộ, chiến sỹ anh dũng ấy đã tung lựu đạn, bật cửa hầm,
quyết tử cho kháng chiến thành công. Đó là ông Chu, ông Hỗ và bà
Hoài – những liệt sỹ anh hùng làm vẻ vang truyền thống anh hùng của
làng Trèm bất khuất.
Cây Trèm hôm nay trong vườn một số
gia đình chỉ còn một ít hồng xiêm
nhân giống từ làng Giàn, làng Cáo (Xuân Đỉnh) từ đầu những năm 60,
trải hơn nửa thế kỷ, cũng già cỗi, thoái hóa. Một ít hàng cau cao,
cau vua, cau lùn lổm nhổm, lưa thưa. Bao nhiêu rào ruối ta quả vàng, ruối
ôrô lá cứng có gai, rào găng, dâm bụt cũng cứ lập lòe đơm bông,… thảy
đều biến mất, để thay bằng tường hoa, tường bao các kiểu …
Nói tóm lại, tuy chưa đến nỗi cả làng thành một khối bê tông!
nhưng từ lâu đã không thể nói đó là làng
Trèm xanh như những năm nảo năm nào…
Bao giờ làng Trèm xanh trở lại?
Trên đà công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, đô thị hóa ào ạt, mạnh mẽ như hiện nay, câu hỏi nhức nhối, da
diết ấy, vẫn chỉ là một câu hỏi buông, câu hỏi lửng, chưa tìm thấy
lời đáp.
Hà Nguyên nhìn tôi, như muốn tìm
câu trả lời. Tôi cũng lặng nhìn anh, với cái nhìn đồng cảm. Chúng
tôi lặng lẽ nhìn nhau, rồi cùng nhìn ra ngoài đường. Nắng lấp lóa
trên con đường thôn lát bê tông và hai dãy tường rào đối diện, hình
như cũng nhìn nhau câm lặng…Ngõ vào hồi lửng sáng vắng hoe, tịnh
không một bóng cây xanh!?...
Lũy tre, rặng tre làng đu đưa kẽo kẹt trong những trưa hè nắng lửa. Đang từ ngoài đồng hừng hực nắng, vừa bước qua cổng làng, bàn chân trần đi trên con đường gạch đỏ lát nghiêng, dưới vòm lá tre mát rười rượi mới thấy cái hạnh phúc được ở làng quê lên đến ngần nào. Mắc võng dưới bụi tre ngà, phe phẩy cái quạt nan hay quạt thước, nghe gù gù con chim gáy béo nung núc thấp thoáng trên ngọn, thiếp ngủ lúc nào không hay…
Trả lờiXóa