Nhà thơ Vũ Quần Phương
Đọc BÌNH THƠ của Vũ Quần Phương
Vũ
Nho
Tập
BÌNH THƠ của Vũ Quần Phương do nhà xuất bản Dân Trí xuất
bản năm 2012 có 141 bài bình thơ, trong đó có 3 bài bình ca
dao, một bài bình trích đoạn sử thi Đăm San, 1 bài bình bài
thơ vô danh, còn lại là 136 bài thơ của các tác giả trong nước và
nước ngoài. Người viết đã đụng chạm đến 2 nhà thơ Trung Quốc, 2 nhà thơ
Pháp cùng với 67 tác giả Việt Nam
cổ điển và hiện đại. Thơ của các nhà thơ nữ lọt vào mắt xanh của nhà phê bình
chỉ có 6 người; bốn tác giả cổ điển là Hồ Xuân Hương, Bà huyện Thanh Quan, Đoàn
Thị Điểm, Nguyễn Hạ Huệ; hai nhà thơ hiện đại là Anh Thơ ( 2 bài) và Xuân Quỳnh
( 3 bài). Những nhà thơ được Vũ Quần Phương bình nhiều nhất là Nguyễn Du, Tố
Hữu ( 7 bài); Hồ Chí Minh ( 6 bài); Huy Cận, Xuân Diệu ( 5 bài);Tản Đà, Hữu
Thỉnh, Nguyễn Duy, Trần Đăng Khoa ( 4 bài).
Các
bài bình thơ của Vũ Quần Phương được viết rải theo suốt chặng đường
sáng tạo bền bỉ của nhà thơ. Những bài viết sớm nhất in trong tập bình thơ đầu
tiên “ Đọc thơ Hương Tích” xuất bản năm 1986, các bài tiếp theo in trong “Thơ
với lời bình” xuất bản năm 1990; tiếp đó
là các bài viết in trong “Ba mươi tác giả văn chương” năm 2009. Quan sát ngày tháng in dưới mỗi bài
viết có thể thấy năm 2008 là năm nhà thơ viết khỏe nhất : 23 bài, bình quân mỗi
tháng gần 2 bài. Những bài viết cuối đưa vào tập là bài viết về thơ Vũ Từ
Trang và Phạm Khải viết tháng 4 và tháng 5 năm 2012, trước khi sách Bình
Thơ được in xong một tháng.
Vũ Quần
Phương đã sử dụng thành thạo, biến hóa, đa dạng mà nhất quán các thao
tác bình thơ ông đã tích lũy trong suốt quá
trình viết 141 bài bình của tập BÌNH THƠ.
Trước
hết là những “mở bài” cho các bài viết. Thật ra, khi viết hai
chục bài thì vấn đề mở bài vừa dễ lại vừa “cực
khó”. Viết đến năm chục bài thì cái dễ và cái
khó ấy tăng lên gấp đôi. Viết đến hơn 100 bài thì
chỉ có bậc cao thủ mới có thể làm được
vì rất dễ “lặp lại”, dễ nhàm. Nói dễ vì người
viết đã có một trải nghiệm thực tế, viết càng nhiều thì trải
nghiệm và kinh nghiệm thêm dày. Nhưng cái khó cũng tăng lên nhiều lần vì
người viết không thể lặp lại. Mở đề trực tiếp, gián tiếp; mở đề bằng kỉ niệm
riêng, bằng câu chuyện; mở đề bằng so sánh, liên tưởng; mở đề bằng nêu hoàn
cảnh sáng tác, hoàn cảnh thành thơ; mở đề bằng giới thiệu tóm tắt tiểu sử, giới
thiệu tập thơ có bài thơ được bình,… Các kiểu đó Vũ Quần Phương đều đã sử dụng.
Chính mẫn cảm của người bình đã mách cho nhà bình thơ chọn kiểu mở đề nào cho
bài thơ nào. Thành ra người đọc luôn luôn cảm thấy tự nhiên khi theo người bình
vào bài thơ. Đấy là sự thể hiện tài năng của người viết.
Tiếp
theo là làm thế nào để tiếp tục lôi cuốn, hấp dẫn người đọc sau khi đã vượt qua
cửa ải “mở đề”. Ở đây cũng lại là chỗ vô cùng biến hóa, linh hoạt của ngòi bút
bình thơ Vũ Quần Phương. Một điều cần tuân thủ với người bình thơ là phải luôn
bám sát văn bản. Với nhiều bài thơ có độ dài trung bình, cái cách thông thường
nhất, dễ làm nhất và hiệu quả nhất là chia khổ để dễ bình, làm cho người đọc,
người nghe dễ theo dõi. Vũ Quần Phương ưa chọn cách này. Và như vậy muốn hay
không, sẽ có một công thức được hình thành một cách tự nhiên: Khổ thơ đầu,…Các
khổ tiếp theo,…Khổ thơ cuối,…Nhưng người đọc không cảm thấy nhàm chán chính là
nhờ ở sự phân tích tinh tế, sâu sắc và thú vị của người bình. Trần Đăng Khoa
nói đúng “ ông (VQP) rất giỏi khi đi vào những tiểu tiết tinh vi của bếp núc
nhà nghề” (Mấy lời mở sách). Nhưng nếu chỉ giỏi đi vào tiểu tiết thì liệu
người bình có đủ sức lôi cuốn độc giả? Vũ Quần Phương ngoài việc giỏi đi
vào tiểu tiết, còn giỏi nắm bắt cái hay, cái lạ, cái độc đáo của bài thơ,
khổ thơ, hình tượng thơ. Nói cách khác là giỏi nắm bắt “hồn vía” bài thơ. Chọn
bình một bài thơ, nhưng Vũ Quần Phương không ít lần dẫn ra những đặc điểm, ưu
điểm cả tập thơ của tác giả. Ví dụ viết
về bài “Tìm người”, nói ưu điểm tập “Thư mùa đông” của Hữu Thỉnh ( tr. 666);
viết về bài thơ “ Những đứa trẻ chơi trước cửa đền”, nói “nét duyên riêng mới
mẻ” của Thi Hoàng trong tập thơ “ Bóng ai gió tạt” ( tr.719); viết về bài
“ Ngược núi Thiên Thai” của Vũ Từ Trang, Vũ Quần Phương khái quát thơ ba thời
kì ở nước ta: “ Cách viết hàm súc làm mạnh ý và tạo thẩm mĩ ở đoạn thơ này là
ưu điểm của thơ hôm nay. Đậm đặc hơn thơ thời bao cấp ( ham kể việc), hơn cả
thơ thời Thơ Mới ( ham trữ tình à ơi).(tr. 723)
Là người
bình phẩm, Vũ Quần Phương cũng như bất kì người bình thơ nào phải thuyết
phục được người đọc, người nghe tại sao lại chọn bài thơ đó mà không phải bài
thơ khác? Bài thơ đó hay, độc đáo ở chỗ nào về nội dung và về nghệ thuật? Bao
giờ Vũ Quần Phương cũng khẳng định và thường chỉ ra đúng giá trị của bài thơ
được bình. Sau khi đã phân tích xong, thì tóm lại; hoặc nói ngay từ đầu để căn
cứ vào đó triển khai. Ví dụ, khen trực tiếp bài thơ hay khi bình bài
“Dọc theo bến cảng” ( tr.45), bài “ Hai bài thơ hái sen của Nguyễn Hạ Huệ” (
tr. 89), bài “ Mẹ Suốt” (tr. 531), bài “ Dịu và nhẹ” ( tr.645), bài “ Đò Lèn”
(tr. 648), bài “ Sang thu” ( tr.660), bài “ Đường lưng Đèo Gió” ( tr. 687)…
Ví
dụ chỉ ra nét đặc sắc của bài khi viết về “ Cảnh Hương Sơn” ( tr. 177),
bài “ Vịnh Hương Sơn” ( tr.188), bài “ Gửi bác Trần Nhuận Minh” ( tr. 695), bài
“ Dặn con” ( tr.704),…
Nhiều
khi ta thú vị được chia sẻ với Vũ Quần Phương khi
nhà thơ vừa bình thơ, vừa tâm sự kinh nghiệm đọc thơ và thưởng
thức thơ với bạn đọc. “Tôi nghiệm thấy chữ nghĩa bị cắt ra từng mảnh để phân
tích dễ làm lạc đi cái ý toàn thể lắm. Nên phân tích trong các mối quan hệ:
liên hệ giữa tác giả với xã hội, tác phẩm với tác giả, giữa câu với chữ, nghĩa
đen với nghĩa bóng” ( tr. 140). Đây là kinh nghiêm mà Vũ Quần Phương đã tổng
kết và đã thực hành thành công trên các bài viết. Một chỗ khác ông viết : “ Khi
đọc ý ( nghĩa đen) cần đọc kĩ để thấy cái thú vị của việc đưa thực tế ( làm
bánh trôi) vào thơ. Còn đọc tứ cần tinh nhạy trong liên tưởng và rộng xa
trong kiến thức để phát hiện ra hàm ý, gọi nôm na là nghĩa bóng của hình tượng,
mà nói chữ nghĩa là sức khái quát của hình tượng, là khâu giải mã bài thơ” (
tr.145).
Sức
liên tưởng tinh nhạy của người làm thơ được huy động vào lĩnh vực
phê bình; kiến thức rộng xa của một người chịu đọc, chịu nghĩ đã
giúp cho người bình chỉ ra được nét đặc sắc của mỗi bài, có khi
chỉ là của một câu, một hình ảnh hay một từ trong bài. Đấy cũng là
một nét độc đáo làm nên sức lôi cuốn của ngòi bút bình thơ Vũ Quần Phương.
Là một
nhà thơ có ý thức cao về nghề nghiệp,
Vũ Quần Phương mỗi khi bình không chỉ nói toàn cái hay, cái đẹp
của đối tượng. Nhà bình thơ cũng không ngại nói ra những điều bất
cập hoặc còn non lép. Có điều cách nói của người bình là cách
nói chân thành, không phải cao ngạo hay “bới lông tìm vết” nên dễ được
đồng tình, cảm thông. Việc chỉ ra những hạn chế, những “tì vết” trên viên ngọc
cũng góp phần vào nâng cao thị hiếu thẩm mĩ và năng lực thưởng thức của bạn
đọc. Đây cũng là một công lao cần ghi nhận ở nhà bình thơ Vũ Quần Phương.
Bình
thơ của bà huyện Thanh Quan, ông phê bình không ngại bị
cho là “ngạo ngược” khi dám chê thơ tiền nhân :
“ Câu sáu : Thương nhà mỏi miệng cái gia gia là một câu thơ độn. Nó
tồn tại như một hình nhân làm vế đối cho câu năm, không có hồn vía gì.
[…] Thơ đường của bà Thanh Quan nổi tiếng là có ngôn ngữ sang trọng, đài các mà
đến lúc phong trần thì cũng phong trần như ai. Tiếc thế” (tr. 149).
Với
bậc đàn anh, bậc thầy Huy Cận, trong bài “ Các vị la hán
chùa Tây Phương” người bình cũng thẳng thắn nhận xét : “ tài sắc câu
thơ có bị nhạt đi, thậm chí có chỗ thừa”.
Và mở rộng hơn, ông đánh giá: “Đây là cái bệnh thích đầy đủ và rõ
ràng, bệnh của một thời không chỉ riêng ở Huy Cận. Nhà thơ thường đứng ra
thuyết minh giảng giải. Mấy chục năm liền, thơ chúng ta thường dài, sức hàm súc
bị giảm sút là vì cái lẽ này” ( tr.497).
Bình
thơ của nữ sĩ Xuân Quỳnh, bên cạnh những khẳng định, biểu dương, ông cũng
không bỏ qua những chỗ còn hạn chế “ Đoạn một và đoạn bảy chỉ tạo
một tình thế cho lời bình luận có tính báo chí và cổ động. Kể ra với bút pháp
tinh vi hơn như ở giai đoạn sau này của chính Xuân Quỳnh, “bình luận” có thể
kín đáo ngay trong phần trữ tình bằng một chi tiết nào đó, chứ không nên lộ
liễu phơi ra hai đoạn giáo đầu và tóm lại thật thà như thế” ( tr.553).
Nhận
xét về việc kéo dài quá mức trong bài thơ Tiếng Việt của Lưu
Quang Vũ, người bình một mặt chỉ ra cần kết thúc sau câu thơ “ Thành Nguyễn
Du vằng vặc nỗi thương đời”, mặt khác lại thông cảm vì Lưu Quang Vũ “đang phong
phú thừa thãi cả hình ảnh lẫn tình ý” phải nói hết, “ Có điều cần thông
cảm với tác giả là hồi ấy thơ của chúng ta thích rõ ràng và đầy đủ, cả người
viết lẫn người đọc đều không ngại sự dài dòng” (tr. 628).
Có thể
thấy rằng cái giọng thủ thỉ, tâm tình kết hợp với sự duyên thầm, hóm
hỉnh, hài hước của Vũ Quần Phương cũng làm cho các bài bình
thơ có sức hấp dẫn riêng. Không ít lần nhà bình thơ tranh
luận về cách hiểu câu thơ, bài thơ với đồng nghiệp, nhưng cách
tranh luận của Vũ Quần Phương không hề cao giọng, cũng không hiếu
thắng. Người viết thường nhẹ nhàng, khiêm tốn nói về một cách hiểu
khác, rồi lướt qua. Việc còn lại là tùy người đọc quyết định. Có khi
phân tích đã khá sâu, khá thấu đáo, nhưng Vũ Quần Phương vẫn viết “ ai cũng cảm
nhận được vẻ đẹp của nó, nhưng dù phân tích đến đâu vẻ đẹp ấy vẫn là một điều
bí ẩn” ( tr. 250). Ai đó có thể coi đó như là lời rào đón khôn ngoan, còn tôi
thì tin vào sự chân thành của người viết.
Tất
nhiên Vũ Quần Phương cũng có những nhược điểm như bất kì người viết nào.
Chỉ kể ra đây mấy điểm để thấy không phải lúc nào nhà bình thơ cũng thành công.
Chẳng
hạn bình bài thơ Sao không về vàng ơi của Trần Đăng Khoa, ông cho rằng
mất của khó làm thơ. Rồi lại nhận định mất chó thì chỉ “buồn cái tay” ( Mày
không bắt tay tao, tay tao buồn làm sao). Trong khi đó con chó Vàng, với chú
Khoa là một người bạn, bạn khác loài nhưng vô cùng quan trọng.
Vũ
Quần Phương đã hiểu không chính xác từ “dã kê”, gà đồng, tức là loại gà
hoang chứ không phải là gà trong xóm. Vì vậy bình bài thơ của Phù Thúc Hoành,
tác giả viết: “ giữa hiu quạnh hoang vu gặp ấm áp làng mạc : tiếng gà đồng”
(tr. 87) là không thuyết phục. Cũng vì không rành tiếng Hán, nên câu thơ của
Nguyễn Hạ Huệ “ Băng ki nguyên tự hương”, Nguyễn Vinh Phúc dịch: “Hương bay từ
tấm thân ngà”; nhưng người bình thơ lại bình “ gió vờn tóc và gió mang hương
ướp da”. Da tự tỏa hương khác xa với gió mang hương để ướp da. (Mà chữ ướp da nghe cũng không nhã vì gợi sự ướp
xác!).
Có
những lúc nhà thơ ham giảng giải cho người đọc chẳng khác nào một thầy giáo dạy
văn “nói hết nước hết cái” ( Chữ của Vũ Quần Phương khi bình bài Về Tuyên của Xuân Diệu). Cũng có khi quá
sa đà vào nhưng chi tiết đời sống ngoài tác phẩm, dẫu rằng “hay thì thật là
hay” nhưng làm cho bài bình bị kéo dài, “lan man”. Và cũng có một đôi chỗ hiểu
chưa trúng, bình chưa đúng.
Mấy
nhược điểm và hạn chế kia, có thể là do tôi soi các
bài bình một cách khe khắt quá chăng? Có thể là do tôi
không muốn chỉ khen một chiều mà nêu ra chăng? Có thể là do tôi đem
“con mắt hạt đậu” mà nhìn nhận chăng? Dù đánh giá thế nào, tôi
vẫn cho rằng thành tựu bình thơ của Vũ Quần Phương là một thành
tựu lớn, rất đáng ghi nhận. Ông là nhà bình thơ hàng đầu ở nước ta, thiết
tưởng đánh giá như thế cũng không quá. Nhà thơ đã giúp cho các thầy
cô giáo và các em học sinh tiếp cận những áng thơ hay một cách
lí thú. Và sau hết, nhờ những bài bình cần mẫn, tài hoa, sâu sắc của Vũ Quần
Phương, bạn đọc đông đảo đã có cơ hội để thưởng thức vẻ đẹp những viên ngọc trong kho tàng thơ ca
đất nước.
Nhà sáng tác Nha
Trang tháng 3/2013
Hà Nội, tháng 4/2013
Không biết ông nhà thơ này có bình loạn về thơ của nhà thơ vĩ đại Hoàng Quang Thuận ? Nếu có thì vui lắm đấy.
Trả lờiXóaNhà thơ Vũ Quần Phương không viết về thơ Hoàng Quang Thuận bạn ạ. Chắc bạn sẽ "buồn" vì thông tin này?
XóaChủ trang
VN
Nhận xét này đã bị quản trị viên blog xóa.
Trả lờiXóa