TRUYỆN NGẮN VĂN NGHỆ THÁI NGUYÊN NĂM 2013:
CÓ NHỮNG LÝ DO ĐỂ CHÚNG TA CHỜ ĐỢI
Nguyễn Thanh Mai
Trong những năm gần
đây, do phải đáp ứng yêu cầu đa dạng về thông tin, diện tích cho sáng
tác văn chương trên báo chí cũng dần thu hẹp. Thế nhưng, với 43 truyện ngắn
được tuyển chọn công phu, kĩ lưỡng trên 36 số báo Văn nghệ Thái Nguyên năm
2013, đủ thấy truyện ngắn Thái Nguyên vẫn là đứa con
được cưng chiều của bà mẹ văn học.
1. Với biên độ phản ánh được mở
rộng trong mọi chiều không gian và thời gian, từ cõi sống đến cõi chết, cái
thực đến cái mơ, thành phố và miền rừng, chuyện trẻ con và người lớn…hầu như
mọi lĩnh vực của đời sống đều được đề cập đến trong cái nhìn nhiều mặt của các
cây bút truyện ngắn trên trang Văn nghệ Thái Nguyên (VNTN) năm 2013. Ở đây, ta
gặp một thế giới nhân vật thuộc đủ mọi tầng lớp, từ chính trị viên trưởng, giám
đốc, văn nghệ sĩ, bệnh nhân phong đến anh xe ôm, người điên, cậu sinh viên
quăng thân trong chợ người, người đàn bà đi đêm…, tất cả đều hiện lên trong
muôn mặt đời thường cùng những hệ lụy và bí ẩn khôn lường của cuộc sống. Lấy
việc nghiên cứu đời sống làm hướng chính; tỉnh táo, chăm chú khám phá cuộc sống
và con người; càng ngày, các tác giả truyện ngắn càng tỏ ra mẫn cảm hơn với cái
hiện tại, cái đương thời với sự định hướng tư tưởng rõ ràng. Đây vẫn là một
trong những cách thức chính của các cây bút truyện ngắn Thái Nguyên trên
VNTN. Về mặt này, không phải không có những tác phẩm có sức nặng.
2. Dễ dàng nhận thấy, đa số tác phẩm vẫn viết theo lối truyền thống; thiên
về tả thực, coi trọng luận đề, cốt truyện, nhìn cuộc sống bằng cảm quan “đại tự
sự”; nhưng cái nhìn hiện thực đã chín, chắc hơn, và không né tránh. Đó là hiện
thực nông thôn với những khuôn mặt sạm đen và buồn như đất trong Mã số
1683(1); ở đó, có những Đại gia làng(2) phất lên
được từ lòng hảo tâm và cái nhìn không định kiến. Đó còn là hiện thực đắng lòng
của đời sống thị thành trong Tiếng khóc(3) mà đôi khi, mỗi chúng ta buộc phải chấp nhận Cát
mặn(4) của đời.
Tuy nhiên, còn một hiện thực khác ấm lòng hơn khi Trên đường(5) đời
còn nhiều nghịch lý vẫn có những Lá bùa đỏ(6) mê hoặc, nơi Góc khuất(7) vẫn
nở ra “hoa thầm”, các giá trị nhân văn được nhìn nhận lại. Và bên cạnh
những phận người lam lũ giữ nguyên vẻ quê mùa, chất phác như thằng Cui, lão
Ban, bà Liễu, cụ Bòng, cậu bé Non, cháu Vải, lão Mạ, ông Bùng(8)…còn
có Người
đàn bà đi đêm(10) mang
tên Trinh (tiết), hai người lính ở
hai bên chiến tuyến thân xác đã dưới mồ vẫn gọi tên nhau Chiến, Thắng; và họa sĩ Lương
An với thế giới nội tâm sâu thẳm chẳng bao giờ bình an (Cổ
Thành thấp thoáng(11)); là nhà điêu khắc lừng danh đóng cửa
hà khắc với tất cả mọi người, nhưng lại mở lòng trước một bà cụ ăn xin (Danh
họa(12)); một Thầy Giang(13) mà cuộc
đời như đã thành một phần của bà con xóm chài lênh đênh sông nước. Đã có một
thế hệ mới trưởng thành, họ phải đối mặt với bao Thử thách(14), đấu tranh khốc liệt với hoàn cảnh, với
chính mình để giữ lại chất Vàng ròng(15); trong muôn
vàn nỗi éo le bi kịch của đời, vẫn cố giữ mình đứng vững trên lập trường nhân
ái (Mùa
vải(16), Mình ơi(17); nhưng cũng
có những người, sống đến hết đời vẫn chưa thôi ngơ ngác, chưa hết lầm lạc và ảo
tưởng (Trai chúa(18); Tham mưu(19). Một số
truyện viết về đề tài chiến tranh của các cây bút ngoại tỉnh(20) đã
thể hiện một hướng tiếp cận mới hơn, trần trụi, khắc nghiệt hơn. Bằng cách lựa
chọn sự kiện, tình tiết và nhân vật tạo ra sự đồng hiện không gian và thời gian;
đan cài, lồng xen các yếu tố thực- ảo; vừa liên kết vừa mâu thuẫn; vừa đồng
nghĩa vừa ngược nghĩa…những tác phẩm này đã lay động mạnh trái tim người đọc,
thể hiện cái nhìn riêng, lạ. Ở đó, con người xuất hiện như một cá nhân toàn vẹn
có ý thức, có vẻ không phù hợp với trật tự đã hiện hành, với những giá trị đã
được thiết lập, chủ động đi tìm giá trị đích thực, cho mình và cho người, dù
không phải ai cũng thừa nhận.
3. Không kể những truyện ngắn hay về đề tài “Tam nông” và những tác phẩm
đã có tiếng vang trên văn đàn của những cây bút ngoại tỉnh, trên
“mảnh đất” Văn nghệ Thái Nguyên 2013, bạn đọc có thể nhận ra những “cây” truyện
ngắn đã nở hoa trong lòng bạn đọc nhờ lối viết chắc tay, ít nhiều có sự sáng
tạo. Đó là truyện ngắn Nếu tôi là cha mẹ của
Nguyễn Hồng Ngọc với lối viết thông minh và tràn đầy cảm xúc. Một câu chuyện
cảm động về giáo dục mà người lớn rất cần đọc và suy ngẫm. Truyện chỉ như là sự liệt kê nội dung ghi trong những mảnh giấy
của lũ trẻ, thế mà cả người đọc lẫn tác giả (hình như thế), đều cảm thấy hồi
hộp, kịch tính, và nghèn nghẹn con tim… Trẻ con nói mọi điều thật giản dị, hồn
nhiên, mà mỗi chữ mỗi lời như những giọt nước rơi từ một mái chèo khuya nào đó
khiến người đọc sung sướng, ngạc nhiên; và hạnh phúc. Sung sướng vì cuộc đời
này còn trong trẻo thế. Ngạc nhiên vì tại sao những ước mong giản dị thế mà
người lớn không mang đến được cho các em? Hạnh phúc vì vẫn còn nhiều lắm những
tấm lòng như cô giáo tiểu học kia. “Nếu
tôi là cha mẹ, tôi sẽ mua cho con cái áo siêu nhân như của thằng Tèo nhà
bên…Nếu tôi là cha mẹ, tôi sẽ cho phép con tôi đấm thằng nào dám bảo nó là
"Đồ con lợn"…Nếu tôi là cha mẹ, tôi sẽ không quát to khi con tôi làm
vỡ cái bình, bởi vì khi tôi làm vỡ cái bình thì ông bà nội hay ông bà ngoại của
con tôi đều không đến để hét vào mặt tôi "Đồ phá hoại!... Nếu tôi là cha
mẹ, tôi sẽ không để con tôi ở nhà một mình, nó rất sợ tiếng thạch sùng cười…
Nếu tôi là cha mẹ, tôi sẽ không bảo con tôi "Im để bố nghe điện
thoại" khi nó nhờ làm bài tập”. Vậy đấy, tâm hồn trẻ con thật như một
tấm gương trong không tì vết để soi vào đó, “người
lớn” nhận ra chính mình và phải giật mình
suy ngẫm. Với tác phẩm này, người viết đã đặt được những bước chân đầu tiên
trên chặng đường nghệ thuật còn dài và xa.
Cũng là tiếng nói của một người trẻ, nhưng Bậc
cầu thang và những khúc ca của Trinh Nguyên lại dẫn ta vào phức điệu của
những cảm xúc, những ẩn ức, hồi ức, những suy tư, day dứt thanh khiết mà nhẹ
nhàng. Ngay cả những kí ức đau buồn cũng chỉ còn là những ánh hồi quang dìu
dịu. Những tháng ngày cơ cực của mẹ; những xúc cảm đầu tiên về tình yêu mong
manh; những cảm nhận rõ rệt hơn về người
chồng... Cứ thế, bạn đọc như đang được trải nghiệm qua những bậc cầu thang cảm
xúc cùng Em- nhân vật không rõ mặt,
rõ tên, nhưng dịu dàng và nhân hậu, biết chấp nhận, hi sinh nhưng chưa lúc nào
thôi khao khát về một cuộc sống lẽ ra phải khác hơn…Một cái kết bẽ bàng với tin
nhắn duy nhất trong ngày của Ngân hàng chúc mừng sinh nhật; một khúc ca
tuổi ba mươi đầy ám ảnh với những yêu thương và hờn giận, những tủi cực, đau
lòng,…Giữa dòng cảm xúc trào dâng được viết bằng ngôn ngữ tự nhiên, có vẻ rất
nhẹ, rất nông nhưng không bằng phẳng và dễ dãi, tác giả đã khéo đan cài những
triết lý sống như điểm lắng lại và dồn nén những suy tư: “Biết làm sao được hả
chồng? Phải có trước thì mới có sau. Muốn về được nhà thì phải đi lên mà việc
đi lên luôn bắt đầu từ những bậc cầu thang thấp nhất”. Quả là, trong cuộc đời
mỗi người, ở mỗi chặng đường đời đều có những điều vượt quá khả năng thực tiễn
và mong muốn cho phép, vấn đề là phải biết chấp nhận nó để vượt lên, để tám
mươi bậc cầu thang nhọc nhằn sẽ là những khúc ca cho cuộc đời biết hát, dù đó không
phải là khúc hoan ca đi nữa thì nó cũng rất có ích cho cuộc sống này.
Cuộc sống ngày càng thay đổi. Không gian rút ngắn,
con người gần nhau nhanh hơn, nhưng có phải vì thế mà tình yêu cũng nhanh đến
chóng đi, những ốc đảo cách biệt càng nhiều; con người ngày càng trở nên phức
tạp? Ở
truyện ngắn của Lê Đình, thế giới nội tâm con người được tác giả chăm chút kĩ
lưỡng. Với cảm hứng trữ tình sâu lắng, những câu
chuyện giản dị của Đình như đã trút bỏ vẻ lam lũ ngày thường để vụt hiện những
tứ thơ, vọng lên những ưu tư, trắc ẩn về những phận người, những tâm hồn chưa
qua thời trẻ dại. Đó là “Lam” (Nhà số 33) trong tột cùng cô đơn,
hoang hoải. Những gì gần gũi thân thiết nhất như lần lượt rời bỏ cô mà đi. Bầy
bồ câu, những bông hoa giấy, lời chúc của bố, tiếng Violin của anh Hoàng, ánh
sáng tự nhiên của ban ngày, chiếc cặp lồng cơm nóng hổi, thơm nức mùi xì dầu…
đã trở thành những ẩn dụ nghệ thuật hồi nhớ về thời “nhà từng có bốn người”…
Truyện tưởng như chỉ gồm những mẩu kí ức vặt vãnh, nhưng mỗi chi tiết nhỏ bé đã
ẩn tàng hơi thở của thời cuộc, nỗi đau, niềm vui của cõi người.
Không e ấp tạo dáng, làm duyên, Kỹ thuật ngửi
hoa
của Đào Tuấn là một truyện ngắn có nghề; được viết bằng ngôn ngữ đậm chất văn
xuôi; tưng tửng, như thật, như đùa, như giễu nhại. Nhan đề đanh lại một cách
cay nghiệt; ẩn chứa, hàm súc, khơi gợi nhiều suy tư chứ không bàng bạc một chất
thơ dễ dãi. Tác giả đã dựng nên một nghịch cảnh được đẩy đến kịch tính khi cái
Đẹp cũng bị biến dạng thành sắc sắc không không, con người ta mặc nhiên sống
cùng sự giả tạo được nâng lên như một kĩ nghệ! Chợt nghĩ đến một tứ thơ ẩn hiện
trong câu cuối cùng có thể lấy làm nhan đề: Ngửi
hoa bằng mũi! Vâng, không ngửi hoa bằng mũi thì bằng gì? Không
khí và giọng điệu của truyện tự nó đã toát lên dư vị chua chát về một thứ chủ nghĩa nịnh bợ “đặc sản”
Việt Nam. Trong dung lượng trang chữ chỉ
bé bằng bàn tay, tác giả đã khéo sắp đặt tình tiết xoay quanh tình huống truyện
gợi nên một sự- sống- thực với những trạng thái, những cảnh huống, những quan hệ... Truyện kết thúc bất
ngờ khi kẻ đắc thắng bị “nốc ao” ngay giữa sân nhà, còn kẻ tưởng như sẽ phải
“lĩnh đủ” thì cười ha ha đắc thắng. Một sự "cởi nút" mà thắt buộc như
có móng vuốt; chi tiết và thời gian kiệm ước đến tối thiểu, tâm lý nhân vật có
vẻ rất sơ sài, nhưng tác giả đã tạo được một tâm điểm đậm nét trong một thứ văn
phong cường độ, chính xác và nhất quán. Như một lát cắt của bức tranh đời vẽ
vội, nhưng Kĩ thuật ngửi hoa đã bật lên được một tín hiệu khẩn cấp, một
nỗi đau và cái còn thiếu hụt trong đời sống của chúng ta, đó là sự thành thực
với chính mình.
Với Lê Thế Thành, năm 2013 dường như là một mùa gặt bội thu về truyện ngắn.
Hàng loạt những tác phẩm dày dặn, sung sức và đều tay như đã khắc chạm được dấu
“vân chữ” riêng của ông với những con người, những sự việc, những vấn đề của
hôm nay. Từ Những đồng tiển lẻ giàu chất nhân văn, một Mùa vải đầy chất thơ,
chất trữ tình dịu dàng mà đau nhức, đến bộ mặt của nông thôn mới trong Mã số
1683…tác giả đã hoàn thành một bức tranh liên hoàn về cái hôm nay còn
ngổn ngang bề bộn những tốt, xấu, được, mất. Trong đó, Những
cuộc trà thế sự thực sự đã chiếm được cảm tình của nhiều bạn đọc.
Đọc Những cuộc trà thế sự của Lê Thế
Thành, ta như bị cuốn vào một mạch liên tiếp các vấn đề nghi vấn: Tại sao các ông lại đi xâm lược, chiếm đất
của Nam Việt? Ai quét Nga Xô và Trung Cộng để giải phóng Bắc Việt? Chủ nghĩa Xã
hội là hiện thực hay là bánh vẽ? Nếu chủ nghĩa xã hội tốt đẹp sao không thấy ai
từ các nước tư bản chủ nghĩa trốn chạy về các nước xã hội chủ nghĩa? Mác nói
rằng chủ nghĩa tư bản có một quá trình tích tụ tư bản nhưng so sánh với nước ta
tôi thấy các quan chức không có tích tụ mà chỉ có lợi dụng chức quyền thu về
một tài sản khổng lồ với một thời gian kỷ lục…?. Những câu hỏi “xóc óc”
không dễ trả lời. Lâu rồi, mới thấy tác giả bớt miêu tả, tự sự dài dòng để nói
về thế sự bằng mạch tâm trạng và tư tưởng. Tất nhiên, cách
nói bằng các lý lẽ, ý kiến thường có nguy cơ đơn điệu, nhưng Lê Thế
Thành đã khéo tiết chế và cân bằng. Những lời đối khẩu thông minh không chỉ là
sản phẩm của bộ óc, mà là bằng chứng của sự kiên định vững vàng khiến tác phẩm
vượt qua lối minh họa- sử thi. Dù không tránh khỏi có chỗ còn hơi gượng, nhưng
bằng hình tượng nghệ thuật, tác giả đã khiến người đọc tin rằng, bữa cơm ông
Trung đãi khách có món canh cá nấu mẻ với dọc mùng; cái nhìn qua hơi ấm của
chén trà đã thực sự thay cho cái nhìn qua họng súng. Ông Sồi tỏ ra hợp khẩu vị
và thoải mái trong tâm thế một người bạn chứ không phải kẻ đối đầu hoặc ban ơn.
Tuy vậy, nếu để chất giọng "lý sự" bớt đi, ngôn ngữ sống của thứ lời
ăn tiếng nói ngoài đời đậm đà hơn thì bạn đọc sẽ không có cảm giác những cuộc trà này vẫn là một phương
tiện kể chuyện. Hơi tiếc cho đoạn kết chưa đủ độ nhuyễn về nghệ thuật để chở
nặng tư tưởng. Hình như, đây mới chỉ là một nghi thức nghệ thuật nhằm tạo ra
hiệu quả nhất định để người đọc hiểu rằng, “ông đang có trong tay một vũ khí,
đó là Nghị quyết chống tham nhũng để bảo vệ Đảng và giữ vững thể chế hiện hành.
Mặc dầu ông biết rằng nhiều người đánh giá vũ khí ấy mới được dùng như cho các
cuộc diễn tập.”
4. Hiện thực của đất nước hôm nay, những biểu hiện
của một xã hội đang vận hành trong cơ chế thị trường với tất cả hai mặt sáng-
tối của nó đang tác động ráo riết đến đời sống xã hội và văn học. Với sự cởi mở
của công cuộc đổi mới, các nhà văn đã không
ngần ngại sục vào những ngõ ngách tối tăm, những khúc quanh, ngả rẽ, những mặt
đối lập, kể cả những hoang mang bất định rất người. Với sự đa dạng ở đề tài, nhất
quán ở mục đích, truyện ngắn trên báo Văn nghệ Thái Nguyên đã góp phần tôn vinh
vẻ đẹp con người Việt thuần hậu, bao dung, nhân ái. Chưa đủ điều kiện nghiên
cứu để có một kết luận thỏa đáng, nhưng
so với truyện ngắn Thái Nguyên năm 2011, 2012; diện mạo truyện ngắn Thái Nguyên
năm 2013 đã có những điểm sáng. Đặt trong tương quan với truyện ngắn trên các tạp chí văn nghệ trong khu vực và cả nước, chúng ta lại có thêm
lí do để đón chờ những truyện ngắn có chất lượng nghệ thuật cao hơn, trong đó sẽ
không thiếu những sáng tác hay và lạ.
(1) …(7): Tên các truyện ngắn của Lê Thế Thành, Phạm Đức, Lưu Thị Bạch Liễu, Nguyễn
Thị Phước, Thu Huyền, Bùi Thị Như Lan, Phan Thức, (8) Tên các nhân
vật trong truyện Lê Thế Thành, Nguyễn Thưởng, Ngọc Thị Kẹo, Lê Thị Phương Liên,
Ngọ Quang Tôn, Đào Sỹ Quang. (9) …(19) Tên các truyện ngắn của Nguyễn Bích Hồng, Nguyễn Hữu Quý, Hồ Thủy Giang,
Xuân Thu, Nguyễn Đình Tân, Trần Chín, Lê Thế Thành, Ngọc Thị Kẹo, Phạm Thuận
Thành; Đào Tuấn.
(20) Nấm mồ thứ sáu (Hoàng
Bình Trọng), Bóng anh hùng (Doãn
Dũng),
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét