Đường Văn
ĐỒNG MÔN NHỊ LÃO
(Tản văn – hồi ức)
Tưởng nhớ hồn linh 2 anh
Nguyễn Quang Trân và Đỗ
Trung Côn
ĐƯỜNG VĂN
Anh
Nguyễn Quang Trân mà còn sống đến nay
cũng đã ngoại bát thập rồi; còn anh Đỗ
Trung Côn, nếu không ra đi đột ngột vì 1 cơn suyễn tử thần thì năm tới cũng
vào tám mươi tuổi ta. Cả hai anh đều gắn bó lâu năm với ngành giáo dục huyện
Thanh Trì, rồi quận Hoàng Mai, phiá Nam Hà Nội. Mỗi người một vẻ, nhưng cả hai
đều là những người bạn tri giao vong niên, nhị
lão đồng môn một thời sư phạm lớp Văn
Sử A ở Cửa Ngòi, Nhạo Sơn, Lập Thạch, Vĩnh Phúc nửa cuối những năm 60 thế
kỷ trước, mà mỗi khi nhớ lại, trong tôi đều dâng lên nỗi bồi hồi, thương tiếc.
Hẳn giờ đây, ở trên cao, nơi thế giới
không màu ấy, hai anh đã và đang tha hồ đàm đạo chuyện văn chương hay rong chơi
mặc thích, chẳng màng ngày hay đêm, sớm hay chiều, chắc cũng có khi, ngó xuống
trần gian mà thương nhớ mấy chú em, cô em đang dờ dật, vất vưởng gắng sống nốt bên
lề cuộc đời miên man gió bụi. Anh Trân đi xa đã dăm bảy mùa xuân ẩm ướt; còn
anh Côn giã biệt bạn bè cũng đã gần hơn hai mùa thu qua. Nhưng trong tâm khảm tôi,
cả hai anh như vẫn đang đối ẩm chuyện trò rổn rảng đâu đây. Tiếng cười của anh
Đỗ vẫn kha kha hào sảng. Còn tiếng
cười của anh Trân thì dịu nhẹ; trong khi hơi rít điếu thuốc lào thì lại rất
mạnh, cứ song sóc, sòng sọc, rúc lên từng hồi, khói tuôn cuồn cuộn, lúc tranh
luận về những cách hiểu khác nhau một câu văn
tế của Đồ Chiểu hay một câu thơ
chữ Hán, một câu Kiều của Nguyễn Du…
Mỗi lúc tỉnh trí nghĩ lại: Thế là không bao giờ được gặp lại 2 ông anh nữa! Tôi
vẫn không tin ở chính mình sự thật hiển nhiên này. Bởi thế, trong nửa đêm đông dài,
se lạnh, tôi ngồi một mình bên bàn phím, lại miên man nhớ về những kỷ niệm ấm
lòng với song lão đồng môn, ngõ hầu cho
lòng bớt cô đơn, trống trải…
Hồi ấy là nửa cuối những năm 60 thế kỷ
20, chúng tôi, những thanh niên nam nữ vừa tuổi 17, 18, sau khi tốt nghiệp lớp
10 phổ thông, sau 1 mùa hè nhởn nhơ, vô tư cuối cùng của đời học sinh, đươc/bị nhận Giấy triệu tập học của Trường
Sư phạm Trung cấp 10 + 2 Hà Nội,
tập trung học tập ở nơi sơ tán: một vùng đồi trẩu, sở trung du, tỉnh Vĩnh Phú
(Vĩnh Phúc – Phú Thọ).
Vào học khoảng hơn 2 tuần thì lớp Văn Sử A chúng tôi được bổ sung thêm một
số anh chị cán bộ, giáo viên cấp 1 được Sở, Phòng Giáo dục cử đi học chuyển
cấp, nâng cao trình độ. Đó là các anh chị hiệu trưởng, hiệu phó, giáo viên tiểu
học đã trong ngoài 30, thậm chí 40 tuổi, vợ (chồng ) con cái đàng hoàng, nghề
nghiệp đã ổn định, nhưng vẫn hăm hở, hăng say phấn đấu hơn nữa về chuyên môn,
nghiệp vụ. Tổ 1 chúng tôi có thêm hai chị Lan, Hợi dịu hiền, ít nói và hai anh
Trân, Côn. Anh Côn được bầu làm Tổ trưởng. Lũ choai choai chúng tôi cảm thấy
không khí trong tổ từ ấy dần trở nên ấm cúng, thân mật hẳn lên như một gia đình
đông đúc có những người anh, người chị làm chỗ dựa tinh thần vững chắc.
Anh Trân và anh Côn đều từng là Hiệu
trưởng trường cấp 1 huyện Thanh Trì, nay trở lại làm giáo sinh trường sư phạm chính quy, đồng học với lũ học sinh phổ
thông chúng tôi. Anh Trân cứng tuổi hơn, người cao lớn, da ngăm ngăm, tóc đen
cứng dựng, rắn rỏi và săn chắc như một nông dân tri điền, như một ông đô vật
làng Quỳnh nức tiếng. Tính anh nghiêm nghị, kín đáo, ít nói, ít cởi mở, nhưng
đó chỉ là biểu hiện bên ngoài. Khi đã quen thân rồi, nhiều lúc lại thấy đại ca hóm
ra phết! Đôi lần tình cờ trong những buổi lao động chặt nứa dựng nhà tập thể,
ngắm anh vác bó nứa to vật, dài thượt, nặng trĩu đi phăng phăng, lũ thanh niên
chúng tôi nhìn nhau, lè lưỡi thán phục. Xuống đến chân dốc, anh đặt huỵch bó
nứa xuống bên đường, không phải để nghỉ giải lao, mà lại tất tả quay lên vác hộ
mấy cô em – gái phố - đang ì ạch vừa ôm
mấy chục cây nứa vừa thở, mồ hôi mồ kê đầm đìa như sắp kiệt sức, bất ngờ được
anh sang vai, thở phào như người sắp
chết đuối vớ được cọc, quên cả cảm ơn ông anh tốt bụng!
Hầu như anh, chị cán bộ nào đi học sơ
tán cũng mang theo xe đạp để cứ 1, 2 tuần lại xin phép về thăm gia đình dưới Hà
Nội một lần. Và thế là chúng tôi có cơ hội thi thoảng chủ nhật các anh, chị
không về tranh thủ, mượn chiếc xe đạp Phượng Hoàng, Vĩnh Cửu lai nhau ra thị
trấn Xuân Hòa nhận bưu phẩm hay lượn chơi, hoặc đi chợ Then mua sắn dù, sắn bở cải thiện bữa ăn còm cõi.
Nhớ một lần, giữa trưa nắng gắt, tôi loạng quạng bổ dốc rồi rẽ ngoặt đột ngột.
Dốc đất pha sỏi vụn nghiêng, trơn, ghiđông
tôi không giữ được thăng bằng, cả xe, cả người lăn kềnh ra đường giữa ngã ba lầm
bụi đỏ. Nửa người xây xát, xe thì vành uốn vỏ đỗ, đùi vênh cong. Phải khênh vào
hiệu sửa chữa mất cả tiếng đồng hồ. Cuối chiều, dắt xe sang trả vừa sợ vừa
ngại, nghĩ thế nào cũng ăn mắng nặng nề. Sau khi nghe tôi lí nhí kể sơ vụ việc,
anh Trân chỉ liếc qua cái xe, rồi chăm chú nhìn tôi, giọng nhẹ nhàng:
-
Thôi, việc đã
rồi! Cho qua luôn! Người không sao là may rồi! Lần sau đi xe nhớ cẩn thận hơn. Chú
ý khi xuống dốc, không được chỉ bóp phanh trước mà phải miết cả 2 phanh cùng lúc. Đến chân dốc, mới từ từ cùng nhả nhẹ 2 tay
phanh. Lúc rẽ cũng phải đánh tay lái từ
từ thì mới an toàn.
Tôi vâng vâng dạ dạ mà lòng vẫn áy náy và không thôi tự trách mình vụng
về, bất cẩn. Từ ấy, biết điều, có việc đi đâu xa, cần lắm cũng chỉ dám mượn xe
anh Côn mà thôi!
Nhớ buổi liên hoan sơ kết học kỳ hay
hết năm thứ nhất gì đó, tổ tôi tổ chức liên hoan mặn. Địa điểm ở nhà cụ Hột,
nơi hai anh ở nhờ. Anh Trân hãm tiết
canh vịt thật khéo, có thể xâu lạt.
Chúng tôi vừa ăn uống vừa chuyện trò râm ran. Toàn chuyện các món ăn thịt vịt.
Vừa ăn vừa ngắm cảnh hai ông anh đối ẩm với cụ chủ nhà thong thả, từ tốn, rất
lễ nghi mà bỗng nôn nao nhớ cái không khí ngày giỗ ở quê xuôi. Nỗi nhớ làm mềm
lòng những đứa con mới lớn đã phải xa nhà dăm tháng, chưa được về thăm cha mẹ,
ông bà.
Nhớ lần chấm thi tốt nghiệp cấp 2 chéo huyện. Huyện Đông Anh, nơi tôi và
ĐU đang dạy cấp 2, đổi nhau với huyện Thanh Trì, chúng tôi có dịp đến công tác ở
Hội đồng chấm thi đặt tại thị trấn Văn Điển. Kết thúc một buổi chiều làm việc,
hai đứa tôi quyết định đạp xuống làng Quỳnh Đô thăm anh bạn đồng môn vong niên
Nguyễn Quang Trân. Mấy năm anh em xa
cách, nay được gặp lại, anh Trân mừng lắm, chiêu đãi ngay 2 thằng em bữa tiểu ẩm RTC (rượu thịt chó) tuyệt cú
mèo! Đêm đó, ba anh em chúng tôi nằm ngủ chung giường, gác chân lên nhau mà ôn
chuyện BC. 40D những ngày sư phạm. Và sáng sớm hôm sau, vừa đánh răng, rửa mặt
xong, thì đã thấy bà chị yêu chồng, quý cả bạn chồng, tơi tả bưng xuống nhà ngang
3 đĩa xôi xéo nóng hổi, thơm phức.
Cuộc sống và công việc đưa đẩy, bẵng
đi, hơn 30 năm đã trôi qua, tới đầu những năm 2000, chúng tôi mới lại có dịp
xuống làng vật Quỳnh Đô thăm anh Trân tại ngôi nhà cổ kính của ba anh chị. Lại
một bữa RTC thịnh soạn mừng ngày hội ngộ. Tôi tặng ông anh tập thơ Đồng điệu vừa in, trong đó có bài viết
từ hồi du học ở Nga nhớ về nhị vị đồng
môn một thưở: Bài Gửi cố nhân với
những câu hoài vọng có phần lẩm cẩm, được cái cảm xúc chân thành:
Cố nhân giờ đâu?
Chắc đã thành ông, thành cụ?
Có khi nào nôn nao ôn chuyện cũ,
Vẩn vơ hoài, lụ khụ nhớ thằng em?!
Nghe tôi đọc, anh Trân và anh Côn đều
cười vang, khen chữ lụ khụ đắt và
hóm.. Cười ngớt, lại từ từ rút khăn tay lau mắt! Chúng tôi bàn nhau dịp 20
tháng 11 tới sẽ đến thăm thầy chủ nhiệm cũ - Thầy Nguyễn Kỳ Thục.
Tại một căn phòng nhỏ phố hàng Gai,
nhìn anh Trân trịnh trọng và âu yếm nắm tay thầy giáo cũ về hưu đã lâu cũng
trạc tuổi mình hỏi thăm sức khỏe và nói lời biết ơn tri ngộ, chúng tôi cũng tự
nhiên thấy rưng rưng thương thầy giáo mình cuối đời vẫn lặng lẽ cô đơn.
Tôi còn gặp anh Trân một lần nữa trong
buổi lễ truy điệu thầy Thục ít lâu sau đó, ai ngờ đâu, đó lại là lần cuối cùng!
Ngày anh Trân qua đời, tôi đi công tác
miền Nam không về được. Hơn 1 tuần sau mới biết tin, đành lại cùng anh Côn và NQ,
PT, xuống làng Quỳnh thắp cho ông anh nén nhang muộn màng vĩnh biệt.
Hỡi ôi! Anh Nguyễn Quang Trân, hồn
linh đồng môn khả kính bây giờ hạc giá tiên du tận cõi trời nào?
Anh Trân chơi thân với anh Côn đã từ
lâu lắm. Nếu anh Trân tính đằm và kín đáo thì anh Côn, ngược lại, khác anh Trân
từ hình dung dáng vóc đến tính tình. Anh Côn gầy, mặt xương xương, tóc muối
tiêu lốm đốm từ những năm ngoài 30, tính cuơng trực mà vui hóm, hào sảng, phóng
khoáng. Quê anh trong mạn Mỹ Đức, gần chùa Hương; nhưng ngụ cư ở phường Hoàng
Văn Thụ quận Hoàng Mai cũng đã hơn nửa thế kỷ. Yêu say thơ văn, mê ca hát, vui
tính và dễ dãi nên anh dễ gần và thích bù khú với đám trẻ chúng tôi. Từ ngày
hội ngộ tháng 10 năm 2006, sau chuyến hành
hương lịch sử hiếm hoi về nguồn
thăm lại nơi học sơ tán tại thôn Cửa Ngòi, xã Nhạo Sơn, huyện Lập Thạch, Vĩnh
Phúc (bí số của bưu điện khi ấy: 2811. SP. BC. 40 D), chúng tôi quyết định,
trong thời gian chưa tìm ra tung tích cựu lớp trưởng chính thức (bác Nguyễn Văn
Can, nghe đâu đã từ trần?! lớp phó Nguyễn Như Cảnh cũng sớm khuất núi rồi!),
chúng tôi tình nguyện suy tôn anh Đỗ Trung Côn làm lớp trưởng vĩnh viễn – mà
quả thật anh Côn đã làm thật tốt chức trách này cho đến khi qua đời!
Từ đó, anh Côn trở thành nhịp cầu nối,
nơi hội tụ của cánh giáo già về hưu, nhóm anh em đồng môn giáo sinh lớp Văn Sử
A chúng tôi mỗi khi hội họp, vui chơi, thăm hỏi hiếu hỷ hằng năm. Có những lần
anh Nguyễn Vũ Tiềm, nhà thơ – nhà báo từ thành phố Hồ Chí Minh ra Bắc, anh Hữu
Toàn, chủ hiệu thuốc cam đông y Tùng Lộc (Hỡi ôi! anh Toàn cũng đã trở thành
người thiên cổ vài năm nay!) cũng đều có mặt, góp vui. Chúng tôi mừng nhau lên
lão 60, 65, 70, 75. Khi lên Trèm, khi xuống Yên Sở, khi ra phố Huế, khi về phố
Chùa Láng, khi sang Long Biên… Giản dị, ấm cúng mà xiết bao vui tin, thân
thiết. Ở đâu, chỗ nào, trong cuộc nào anh
Đỗ cũng là cánh chim đầu đàn, người tổ chức gương mẫu, chu đáo, tận tình, tế
nhị, từ món quà tặng đến lời chúc mừng…hoàn toàn không câu nệ hình thức mà càng
không sơ khoáng.
Mấy năm lại nay, tôi hay cùng anh Côn
đàm đạo, trao đổi chuyện văn chương, đọc và viết, khi thì trực tiếp gặp gỡ vui vẻ
bên chén rượu, chén trà; khi gián tiếp qua điện thoại hay e – mail. Tất thảy, lần nào hai anh em cũng vui vẻ, rôm rả luận
bàn. Chúng tôi trao đổi cùng nhau thứ văn
chương thù tạc giao đãi của người già, thấy hồn trí mình như sung mãn thêm
và có phần trẻ lại. Tôi cứ ngượng ngùng mãi không dám nhận bài tứ tuyệt mà anh
ứng tác khi lên thăm căn phòng làm việc đơn sơ ở tầng 4 ngôi nhà mới xây của
gia đình tôi:
Lên cao, đứng ngắm khắp tây, đông,
Làng Trèm có mấy được như ông!?
Một nhà xứng gọi nhà khoa bảng,
Nhân nghĩa đắp bồi tự tổ tông.
Tôi mời anh cùng tham gia viết bài
trao đổi cảm nghĩ về chuyến đi về nguồn,
thu đông năm Tý (2006), về bài ca dao Bông
cúc vàng nở ra bông cúc tím, về những cái giật mình trong thơ ca, về Rượu trong Truyện Kiều… Anh đều hào hứng
nhận lời, tích cực tra cứu sách báo, viết bài hưởng ứng, lại mở rộng sang các
đề tài khác như Rượu trong thơ Nguyễn
Khuyến, bàn về chữ “Thơm”, tự mình ra 1 tập thơ mỏng để tôi có dịp viết bài
bình Đọc thơ Đỗ Trung Côn, lại cùng
anh chia sẻ về việc tự học chữ Hán… Thật là bận rộn và thú vị! Cứ đà này thì có
lẽ…Ai ngờ:
Bảy mươi tám tuổi đã già chi!
Mà trời vừa gọi, thoắt vùng đi!
Thân phàm, thôi thế thành tro bụi,
Hồn vút ngang trời, một áng thi!
Bệnh anh bệnh hiểm hay mệnh anh đã
cùng? Tại người sơ xảy hay vì số đã tận? Anh ra đi như sét xoẹt trời quang! Buổi chiều truy điệu anh ở Nhà Tang
lễ bệnh viện Thanh Nhàn, gió mưa dữ dội tiễn hồn anh hóa khói lên trời trên Đài hóa thân hoàn vũ Bạch Mai. (Lạ lùng sao!
hôm kỵ nhật nhất niên (giỗ đầu) anh Côn (tháng 8 – 2013) cũng mưa to gió lớn
như vậy!) Đồng môn Văn Sử chúng tôi
xếp hàng khóc tiễn anh mà lòng vẫn sửng sốt, bàng hoàng không thể và không muốn
tin vào thực tại!
Từ nay, thiên hạ vắng kẻ tri âm!
Tôi mới càng ngùi ngẫm, thấm thía lời
thơ khóc bạn của cụ Yên Đổ, mỗi khi viết được một bài thơ, hoặc một bài tản văn
tạm gọi là ưng ý:
Câu thơ nghĩ đắn đo muốn viết,
Viết đưa ai, ai biết mà đưa?
Giường kia treo những hững hờ,
Đàn kia, ai gảy, ngẩn ngơ tiếng đàn?!
Tôi lại bàng hoàng muốn nhấc máy, thao
thiết gọi:
Trong những tiếng tút tút kéo dài, tôi vẫn dường nghe được tiếng người tôi nhớ tôi
thương nơi đầu dây bên kia lào phào như gió thoảng:
- Chú Văn đó à? Anh đây! Côn đây!
Hỡi hồn linh nhị lão đồng môn Nguyễn Quang Trân và Đỗ Trung Côn, các anh giờ phiêu
dật nơi đâu???!!!
Cô đơn và buồn… dâng … se sắt!
Đêm 10 – 12 – 2013. ĐV
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét