NGHỊ
QUYẾT CỦA ĐẢNG VỀ ĐỔI MỚI CĂN BẢN, TOÀN DIỆN GIÁO DỤC VÀ
ĐÀO TẠO – NHỮNG THÁCH THỨC VÀ VẬN HỘI CHO GIÁO DỤC NƯỚC NHÀ
PGS TS Vũ Nho
Chuyên viên cao cấp Viện Khoa
học Giáo dục Việt Nam
Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XI, trong Hội
nghị lần thứ 8 đã ra nghị quyết số 29 về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và
đào tạo. Đây là một nghị quyết vô cùng quan trọng cho thấy Đảng và Nhà nước ta
tiếp tục coi Giáo dục là quốc sách hàng đầu. Bản nghị quyết đã đánh giá tình hình
giáo dục hiện tại, khẳng định những thành công, chỉ ra những hạn chế, yếu kém, xác định nguyên nhân khách
quan và chủ quan. Đồng thời nêu lên định hướng đổi mới căn bản, toàn diện giáo
dục và đào tạo với mục tiêu tổng quát:
“Tạo chuyển biến căn bản, mạnh mẽ về chất lượng, hiệu quả
giáo dục, đào tạo; đáp ứng ngày càng tốt hơn công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc
và nhu cầu học tập của nhân dân. Giáo dục con người Việt Nam phát triển toàn
diện và phát huy tốt nhất tiềm năng, khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân; yêu gia
đình, yêu Tổ quốc, yêu đồng bào; sống tốt và làm việc hiệu quả.
Xây dựng nền giáo dục mở, thực học, thực nghiệp, dạy tốt, học tốt, quản lý tốt; có cơ cấu và phương thức giáo dục hợp lý, gắn với xây dựng xã hội học tập; bảo đảm các điều kiện nâng cao chất lượng; chuẩn hóa, hiện đại hóa, dân chủ hóa, xã hội hóa và hội nhập quốc tế hệ thống giáo dục và đào tạo; giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa và bản sắc dân tộc. Phấn đấu đến năm 2030, nền giáo dục ViệtNam
đạt trình độ tiên tiến trong khu vực.”.
Xây dựng nền giáo dục mở, thực học, thực nghiệp, dạy tốt, học tốt, quản lý tốt; có cơ cấu và phương thức giáo dục hợp lý, gắn với xây dựng xã hội học tập; bảo đảm các điều kiện nâng cao chất lượng; chuẩn hóa, hiện đại hóa, dân chủ hóa, xã hội hóa và hội nhập quốc tế hệ thống giáo dục và đào tạo; giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa và bản sắc dân tộc. Phấn đấu đến năm 2030, nền giáo dục Việt
Điều đáng chú ý là Nghị quyết đã xác định các nhiệm vụ, giải pháp căn bản, toàn
diện để tạo chuyển biến mạnh mẽ về chất lượng, hiệu quả của giáo dục.
Cuộc đổi mới
đầu thế kỉ XXI đã đưa ra một
chương trình giáo dục phổ thông thống nhất từ lớp 1 đến lớp 12 được ban hành
kèm theo Quyết định số 16/2006/QĐ-BGDĐT ngày 05 tháng 5 năm 2006. Đây là lần
đầu tiên có một chương trình thống nhất, xuyên suốt các cấp học. Nổi bật nhất,
thành công nhất của lần đổi mới đó là chúng ta đã bước đầu thành công trong việc
xây dựng chương trình tự chọn, đáp ứng nhu cầu của người học. Chư ơng trình đã
chú trọng đầy đủ các yếu tố thành công của các lần trước, đồng thời giải quyết
vấn đề là không phân ban A,B,C,D như lần trước ở cấp Trung học phổ thông. Thế
nhưng, khi thí điểm ở trung học phổ thông, chúng ta cũng vẫn thí điểm ban Khoa học tự nhiên; ban
Khoa học tự nhiên kĩ thuật, Ban khoa học xã hội. Kết quả cuối cùng sau thí điểm
là chúng ta bỏ phân ban mà dùng phân hóa với hai chương trình nâng cao và
không nâng cao ( thường gọi là chương trình chuẩn). Vấn đề là chúng ta đã mạnh dạn cho phép các em học sinh học
chương trình chuẩn lựa chọn nâng cao Toán, Lí, Hóa hoặc Lí, Hóa, Sinh hoặc Toán , Vă n,
Ngoại ngữ. Chính vì mềm dẻo như vậy nên Ban Khoa học xã hội (thường gọi ban C),
và Ban Khoa học tự nhiên – kĩ thuật ( thường gọi ban B) hầu như tự teo đi trong thực tế. Ngay cả những trường
tham gia thí điểm phân ban cũng xin rút ban Khoa học xã hội. Không ai dại gì
lại bỏ thời gian học thêm một môn mà khi thi Đại học không dùng đến.
Nhân đây chúng tôi xin quay trở lại vấn
đề tại sao cuộc đổi mới phân ban ở Trung
học phổ thông lần thứ nhất lại không thành công, mà có thể nói là thất bại cũng
được? Chúng ta vẫn còn nhớ lần ấy, phân ban được tiến hành ở bốn ban: ban A,
ban B, ban C và ban D. Ban B được kì vọng là sẽ tạo ra được nguồn nhân lực phục
vụ cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nhưng thí điểm cho thấy học sinh
và phụ huynh không hào hứng với ban B. Chúng ta đã thất bại vì duy ý chí và
nhìn nhận thực tế bằng lí thuyết sách vở. Và cũng phải nói thêm nữa là chương
trình ban C về môn Ngữ văn quá cao, quá nhiều thay đổi. (Vẫn còn câu chuyện
cười ra nước mắt về Tiếng Việt với thành
phần tham thể được nói lái thành THÊ THẢM!)
Việc đổi mới để đưa đến chương trình
năm 2006 là một cuộc huy động tổng lực các nhà khoa học, khoa học sư phạm, quản
lí giáo dục, giáo viên và tất cả học sinh vào cuộc.
Tuy vậy, trước yêu cầu mới của đất
nước, những cố gắng đó là chưa đủ.
Chúng ta đều biết vấn đề giáo dục là
một vấn đề hệ trọng và phức tạp, liên
quan đến mọi gia đình, liên quan đến sự phát triển của đất nước. Những thay đổi
của mục tiêu, nội dung, phương pháp và cách thức kiểm tra, đánh giá sẽ có tác
động đến không chỉ đội ngũ giáo viên, học sinh, các nhà quản lí giáo dục mà còn
tác động trực tiếp đến hàng triệu gia đình và toàn thể xã hội. Bởi vậy mà việc
đổi mới căn bản, toàn diện sẽ là một thách thức không nhỏ. Vẫn biết rằng giáo
dục đối với nước ta là quốc sách hàng đầu; vẫn biết rằng đầu tư cho giáo dục
của chúng ta đã không ngừng tăng lên, nhưng vấn đề đầu tiên là vấn đề tiền.
Chúng ta đã chi cho giáo dục ở mức khá cao là 20% tổng chi ngân sách. Lần này
tiến hành đổi mới, chúng ta cũng khó có thể chi ở mức cao hơn. Trong số những
nhiệm vụ và giải pháp, nhiệm vụ và giải pháp thứ 7, Nghị quyết ghi “Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong đầu tư và
phát triển giáo dục và đào tạo, ngân sách nhà nước chi cho giáo dục tối thiểu
20% tổng chi ngân sách”. Đây là mức chi ít nhất là bằng mức đã chi. Nghị
quyết đã không khẳng định sẽ chi nhiều
hơn bao nhiêu. Chúng ta có thể đi vay để làm giáo dục. Nhưng không phải muốn
vay bao nhiêu cũng được. Vậy thì đổi mới căn bản, toàn diện, nhưng phải chọn ra khâu cơ bản
nhất để tạo ra đột phá chứ không thể chia đều.
Mặt khác, những chuyên gia, những con người làm giáo dục của chúng ta
xét tổng thể cũng không nhiều. Một số
người già đi, đã mất hoặc không còn đủ sức. Những người mới bổ sung thì cũng chỉ đủ bù cho sự thiếu
hụt. Vì thế mà nguồn lực con người cụ thể ở mỗi ngành học cũng rất có hạn. Nhân
lực và tài lực đều có mức độ. Trong khi đó, chúng ta đổi mới toàn bộ hệ thống
giáo dục “ xây dựng nền giáo dục mở, thực
học, thực nghiệp”. Tất cả mọi cấp
học, bậc học đều đòi hỏi sự đổi mới, hoàn thiện. Tất cả các mục tiêu, nội dung,
phương pháp và kiểm tra đánh giá đều
phải được rà soát lại, bổ sung,
hoàn thiện thêm. Những công việc đó không chỉ cần cố gắng của ngành giáo dục,
mà như nghị quyết đã chỉ rõ cần “ tạo sự đồng thuận và huy động sự tham gia
đánh giá, giám sát và phản biện của toàn xã hội đối công việc đổi mới, phát
triển giáo dục”. Chỉ lấy một phần
của nhiệm vụ và giải pháp thứ hai được ghi trong nghị quyết để xem xét : “ giảm số môn học bắt buộc, tăng môn học,
chủ đề và hoạt động giáo dục tự chọn. Biên soạn sách giáo khoa, tài liệu hỗ trợ
dạy và học phù hợp với từng đối tượng học, chú ý đến học sinh dân tộc thiểu số và học sinh khuyết tật”.
Biết bao nhiêu công việc cần làm để thực hiện được điều này. Thứ trưởng Bộ Giáo
dục và Đào tạo Nguyễn Vinh Hiển đã phác họa việc giảm môn học:
Cấp học
|
Chương
trình hiện hành
|
Chương
trình sau 2015 (dự kiến)
|
Tiểu học
|
11 môn học + 3 hoạt động
|
3 - 6 môn học + 4 hoạt động
|
THCS
|
13 môn học và 4 hoạt động
|
8 môn học + 4 hoạt động
|
THPT
|
13 môn học + 5 hoạt động
|
3 môn học bắt buộc, 3 môn tự chọn và 4 hoạt động (Lớp
11 và 12)
|
Nguồn : Hồng Hạnh - Điểm
mới của chương trình và sách giáo khoa sau 2015, Dân trí điện tử, thứ 2 ngày 21/10/2013
Để chuyển từ 11
môn học xuống còn từ 3 đến 6 môn ở Tiểu học; 13 môn học xuống còn 8 môn học ở
Trung học cơ sở và 13 môn học xuống còn
3 môn bắt buộc và 3 môn tự chọn ở Trung học phổ thông là một công việc không hề
dễ dàng với các nhà chuyên môn. Ở đây chỉ xin lưu ý rằng trong cuộc đổi mới ở
THCS, năm 1998, với sự giúp đỡ của các chuyên gia Australia , chúng ta đã thử tích hợp
môn Lịch Sử và Địa Lí thành môn Khoa học xã
hội, môn Vật Lí, Hóa Học, Sinh Vật
thành môn Khoa học tự nhiên, môn Văn,
Tiếng Việt và Tập làm văn thành môn Ngữ văn.
Nhưng cuối cùng, chỉ có môn Ngữ văn là thực hiện thành công. Lịch
Sử, Địa Lí, Vật Lí, Hóa Học, SinhVật vẫn là các môn riêng biệt. Có thể
khẳng định phương án này đã thất bại vì có quá nhiều nguyên nhân, trong đó đáng
kể là các nhà chuyên môn của chúng ta chưa sẵn sàng cho tích hợp; và các thầy
cô giáo của chúng ta chưa được đào tạo kiểu liên môn và dạy liên môn như thế. (
Trong các trường Cao đẳng của Việt Nam , chúng ta đào tạo liên môn :
Văn- Sử, Toán -Lí, Hóa -Sinh, Sinh- Địa,…)
Việc biên soạn sách giáo khoa phù hợp với đối tượng
học, chúng ta có kinh nghiệm nhiều hơn.
Đã từng có 3 bộ sách giáo khoa Toán cho lần thí điểm phân ban đầu tiên, có hai
bộ sách giáo khoa các môn cho chương trình chuẩn và nâng cao khi thực hiện chương trình 2006. Nhưng bây
giờ, sẽ biên soạn bao nhiêu bộ sách giáo khoa là phù hợp? Sách viết theo xu
hướng phân hóa môn học, hay viết theo vùng miền : thành phố, nông thôn đồng
bằng, nông thôn miền núi, vùng khó khăn và đặc biệt khó khăn? Trong khi một số nước có sách giáo khoa điện tử, chúng
ta có thử làm sách giáo khoa điện tử hay không? Chúng ta “ Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông trong dạy và học”
như Nghị quyết đã ghi như thế nào? Đó là những bài toán không dễ dàng có lời
giải.
Phân tích một phần trong một nhiệm vụ, giải pháp như thế để
thấy rằng biết bao là khó khăn thách thức trong cuộc đổi mới căn bản, toàn diện
này. Nhưng rõ ràng, khắc phục được khó khăn, vượt qua thách thức thì Giáo dục
nước ta mới có thể phát triển, trở thành nền giáo dục tiên tiến trong khu vực
và dần dần theo kịp các nước phát triển trên thế giới. Đây chính là một vận hội
cho nền giáo dục nước nhà.
Có Nghị quyết của Đảng, có sự đồng thuận của toàn xã
hội, cùng với sự nỗ lực hết mình của ngành giáo dục, chắc chắn chúng ta sẽ đạt
được những thành tựu mới, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập
quốc tế.
Hà Nội, tháng 12/2013
VN
Riêng với môn Toán fhif bộ sách cải cách hiện tại là tồi nhất. Học sinh bị học theo kiểu áp đặt, không phát huy được tính sáng tạo và tự chủ trong việc học của học sinh. Người thầy không chịu dạy theo cách viết thiếu logic của sách giáo khoa, không chạy theo kiểu dạy áp đặt một chiều theo hướng '' đổi mới a dua '', đã gặp biết bao phiền phức. May mắn có kết quả tốt nên được học sinh và phụ huynh đồng tình, ủng hộ
Trả lờiXóaRất mong cải cách sắp tới, môn toán được trở về đúng vị trí là môn học theo '' phương pháp tư duy chặt chẽ ''. Điều này phải được giáo viên dạy toán hiểu bản chất vấn đề trước. Hiện nay, đa phần giáo viên dạy toán theo '' phương pháp kỹ năng làm bài '', còn được ủng hộ bởi hiệu trưởng, phó hiệu trưởng chuyên môn nữa chứ. Nghĩa là học sinh được học theo kiểu '' cứ thế mà làm '' không cần biết tại sao phải làm thế
Cám ơn bạn đã nói thẳng về môn Toán!
XóaVần đề không hề dễ dàng, không thể duy ý chí. Chúng ta còn nhiều thách thức sắp tới.
Không dễ như một số người ảo tưởng!