Đường Văn
NHỊ BÌNH THI NGUYỄN HIẾU
với LỜI
BÌNH
ĐƯỜNG VĂN
1. Đàn
bà làng tôi
Nguyễn Hiếu
Chỉ vì cành đa
Con kiến leo vào leo ra;
Cũng bởi nếp nhà.
Đàn bà đi xa, về ngắn
Một sương hai nắng
Ruộng muống, vại cà
Ngực tròn quả bưởi
Tháng năm trôi…
Mặt xạm, tóc xơ
Vú mướp tồng tềnh quăng sau áo mỏng
Lửa tắt, cơm sôi
Con nguệch mặt đòi ti,
Chồng ngầy ngà tòm tem!
Bố ho sù sụ khêu đèn,
Lợn kêu eng éc. Lũ em gõ nồi!
Quái chiều nắng nhạt đã rơi
Hai mươi, trái hồng in gò má
Ba mươi, bồ hóng xạm da
Băm bèo, quên lưỡi liềm trăng,
Sàng gạo, lông mày cám đọng.
Bát cơm xẻ ba nựng con,
Gắp tép rơi (đặt) vào bát mẹ,
Rô don láng mỡ dành chồng,
Canh bầu chan vỏng dâng cha.
Râu tôm vương vào nụ mướp,
Sương giăng chớp ngõ chợ xa,
Ngọn tre mờ gật la đà…
Làng tôi lũ lĩ đàn bà
Hay làm, nhường ăn, khoẻ nói.
Một thời mớ bẩy mớ ba
Tóc lả đuôi gà
Dép cong cau sáu
Cười duyên nhưng nhức hạt na
Làm dâu nhịn bánh, nhịn quà
Đói no không người tỏ
Lời ru nửa câu hát cũ
Ối à rồi lại ới a!
Cầu ao mất rồi, bói cá không về
Tiền đồng mua nổi đựơc quê?
Cào cào giã gạo mải mê đến giờ.
Gầu sòng vỡ, ai be bờ,
Con niễng nhỏ, cũng chẳng chờ đựơc
đâu
Một con gái,
Một con dâu,
Một người làm mẹ…cơi giầu (trầu) vẫn
nông
Hai tay cầm hai quả hồng
Nói đi nói lại cho lòng thêm thương.
Một vai gánh cả đường trường
Mênh mông bầu ngực, mây vương sớm ngày.
2. Đàn ông làng tôi
Nguyễn
Hiếu
Một thủa làng tôi
Đàn ông nhiều vô kể
Đầy đình, chật điếm, ngập đê.
Gà gáy canh tư đã rời hơi vợ
Toòng teng điếu cày, nùn rơm,
Con trâu đi trước.
Thằng người chập choạng bước sau
Áo tơi, nón lá.
Mẹ hĩm trên đồng cạn,
Bố cu dưới đồng sâu
Mồ hôi trắng muối áo nâu
Chiêm qua, mùa tới dãi dầu gió sương.
Sông Cái nước cường chấp chới
Vai u, lưng trần quật thổ đắp đê,
Chiều về đan lạt, chẻ tre.
Rít hơi thuốc lào, khói loà nhoà mặt,
Mẹ đĩ thương buông câu khoan nhặt,
Nặng nhọc đổ biển, đổ
nguồn.
Một thời làng tôi
Đàn ông vợi đi vô kể
Tùng tùng trống gọi ra đi
Áo màu đất đổi áo xanh rừng
Mẹ cu cứng mồm hô câu “vắt, diệt”
Yếu trâu hơn chán khoẻ bò.
Vắng bóng bố em. Mộng giường cọt kẹt
Rô ron rán ròn không kẻ nhắm.
Ai bắc cầu ao, chiều bu nó tắm
Thóc giống cắn chuột trong bồ
Mạ già thành ống. Ai lo cho tày.
Tan giặc. Nườm nượp chồng về,
Kiệu Thánh làng đủ suất
đinh khiêng.
Một, chạp có kẻ tát ao,
Giêng, hai có người cày vỡ, .
Chai tay việc to, việc nhỏ,
Tiếng vẫn để đời, nông nổi,
Giếng khơi à!
Rể gần đến bố chồng xa.
Vắng đằng ấy trống nhà
Thiếu đằng này
quạnh bếp
Đàn ông, xôi nếp cúng cha
Đàn bà, đồng quà dâng mẹ
Công lênh rời sông, lấp bể,
Chẳng bằng tay muối dưa cà.
Nâng be cuốc lủi hát câu la đà:
Ở đời, đàn bà phải có đàn ông!
Gầu giai phải có tay chồng
Một mình thui thủi gầu sòng cực chưa ?
Bu mày nắng sớm, chiều mưa.
Sơn hà, xã tắc, cầy bừa…Thầy em.
Thân này, ham rượu thèm nem,
Cái lúm đồng tiền…ừ hữ… cũng ham!
Quỳnh Mai cuối Tỵ (21/11/2013)
Nguyễn Hiếu
DÂN GIAN - HIỆN ĐẠI
TRONG NHỊ BÌNH
THI:
ĐÀN
BÀ LÀNG TÔI & ĐÀN ÔNG LÀNG TÔI
CỦA NGUYỄN HIẾU
LÀNG TRÈM
(Bình thơ)
ĐƯỜNG VĂN
Để
có được nhị bình thi (khái niệm chỉ
cấu trúc hai bài thơ đối xứng, nối tiếp nhau) sâu sắc, thú vị và độc đáo này, nhà
văn Nguyễn Hiếu làng Trèm cần đến một khoảng thời gian những 3 năm (2010 –
2013); nhưng chắc cảm hứng sâu xa thì đã nấu nung, trăn trở, tích góp nhiều năm
từ vốn hiểu biết phong phú của tác giả về người quê, cảnh quê, một làng quê cổ
truyền thuần nông tọa lạc bên bờ hữu ngạn sông Hồng phía tây bắc thủ đô, thuộc 1 huyện Từ Liêm đang băn khoăn và háo
hức vì sắp sửa được/bị tách thành đôi
Nam, Bắc và chuyển lên thành 2 quận.
Nét độc đáo đầu tiên về thi tứ của hai bài thơ này, theo tôi, là ở chỗ,
nó không khai tác thi đề từ một hình
ảnh, hình tượng, một chân dung cụ thể có thật hay hư cấu về một người đàn bà
hay một vị đàn ông làng tôi nào mà là khái
quát nghệ thuật về tính cách và tâm
hồn chân dung của người đàn bà làng tôi, đối xứng với người đàn ông làng tôi
để làm nên bức chân dung hình tượng con người nông dân làng tôi – làng Trèm – làng Chiện. Viết
kiểu dưới khó khăn hơn kiểu trên rất nhiều vì nó không chỉ đòi hỏi sự khái
quát, tổng hợp đúng đắn, cao sâu mà còn phải rất cụ thể, hình ảnh, lung linh
sống động khi tả, dựng về đạo đức, lối sống, sinh hoạt, làm ăn, tình cảm, số
phận, sự nghiệp… của nhân vật trữ tình mà lại không được phép gắn với 1 nhận
vật cụ thể X, Y nào ở thôn A hay thôn B…
Đọc nhị bình thi, người làng Trèm nhận ra chính mình. Người các làng
khác cũng nhận ra mình trong lời ăn tiếng nói, trong công việc nhà nông, trong
đời sống gia đình, trong quan hệ với cha mẹ, chồng (vợ) con, trong gia đình.
Tính phổ quát, điển hình của hình tượng thơ Nguyễn Hiếu, ở đây đã đạt tới mức chân thực cao. Cố nhiên, người đọc như
tôi và dân Trèm nói chung vẫn đòi hỏi nhà văn thôn Đình phải khu biệt
rõ hơn nữa những nét thật riêng tư, không nhập nhòa, trộn lẫn với đàn bà,
đàn ông nông dân các làng lân cận dọc dải đê Nhĩ Hà.
Cần lao, lam lũ, một nắng hai sương,
bán mặt cho đất, bán lưng cho trời vì cuộc sống hằng ngày. Nước có giặc thì
xung phong đi đánh giặc. Nước hết giặc thì lại về làng theo trâu cày sâu cuốc
bẫm nuôi vợ, nuôi con, chăm sóc, lắng lo khi cha già, mẹ héo. Ăn uống cần kiệm,
tằn tiện, chắt chiu, nhường nhịn cho mọi người; còn mình thì thế nào cũng xong:
miếng cơm hẩm, quả cà meo, muôi canh lõng bõng… Vậy mà vẫn vui, vẫn cười, vẫn
xinh đẹp, tươi giòn, tình tứ: ôi à rồi
lại ối a…! Nguyễn Hiếu tả cái cực nhọc của người đàn bà làng quê chỉ bằng
2 hình ảnh chân mộc mà cảm động và khêu
gợi biết bao:
Băm bèo, quên lưỡi liềm trăng,
Sàng gạo, lông mày cám đọng.
Nếu câu trên hay và thú ở hình ảnh lưỡi liềm sắt dùng để băm bèo trùng khít
với mảnh trăng non hình lưỡi liềm
đang lơ lửng cuối trời, lại bị người vợ bỏ
quên vì mải nghĩ đến chồng, thì câu dưới giản dị đến giản đơn trong tạo tứ,
tạo hình. Nhưng hỏi có người chồng, người trai nào ở xa, thương vợ, nhớ người
yêu mà không se lòng đến quay quắt khi hình dung những hạt cám hòa với mồ hôi
đọng vàng trên má, trên đôi lông mày người đàn bà của mình đang ở nhà tần tảo,
vất vả với cô đơn.
Đoạn
thơ sau dường như kể lể cà kê dê ngỗng mà sao vẫn nhoi nhói, xôn xang, ấm áp
tình người và lấp lánh tình thương yêu, sự hi sinh của người phụ nữ nông dân và
thấp thoáng cái tất bật, đảm đang của người con dâu, người vợ, người mẹ trẻ
trong gia đình:
Bát cơm sẻ ba nựng con,
Gắp tép đặt vào bát mẹ,
Canh bầu chan vỏng dâng cha,
Rô ron láng mỡ dành chồng.
Râu tôm vương vào nụ mướp,
Sương giăng chớp ngõ chợ xa,
Ngọn
tre mờ gật la đà…
Có khi ngòi bút thơ như là tiện đâu
nhận xét đấy, có vẻ vô tình và vô tư nhất trên đời:
Làng tôi lũ lĩ đàn bà,
Hay làm, nhường ăn, khỏe nói,
Một thời mớ bảy mớ ba …
Cả ưu, cả nhược, cả xưa cả nay về tính
cách của đàn bà làng tôi được phơi
bày một cách hồn nhiên … trước bàn dân thiên hạ. Nhưng tôi dám chắc chẳng có bà
con, cô bác, chị em nào kệnh(mếch)
lòng, ngược lại còn thích thú cười mỉm hay cuời giòn khi đọc những dòng thơ bỗ
bã trên… Tôi cho đó là do Nguyễn Hiếu đã chọn
đúng, chọn trúng giọng điệu và cách
thể hiện phù hợp với chủ đề.
Hai câu kết lại trở về với điệu lục bát duyên dáng mà mênh mang, đã nâng
tầm vóc người đàn bà làng tôi, người
phụ nữ Việt Nam, người Mẹ Việt Nam – người Mẹ Anh hùng dáng dấp một Nữ Oa kỳ vĩ
của thời nay và của muôn đời:
Một vai gánh cả đường trường,
Mênh mông bầu ngực, mây vương sớm ngày.
Theo tôi, nhìn tổng thể, bài Đàn bà… sắc sảo và sống động hơn bài Đàn ông… Hiển nhiên là tác giả xuất phát
từ một trong những nguyên lý cơ bản và cổ điển nhất: hài hòa âm - dương, sự bổ sung, bù trừ, giao kết, đắp đổi giữa 2
phái nam – nữ : mạnh – yếu, khoẻ –
đẹp, không thể thiếu nhau. Đó chính là cội nguồn của sáng tạo và phát triển của
loài người và thế giới…Nguyên lý triết học khô khan ấy được hình ảnh hóa, thơ
hóa, nông dân hóa:
Ở đời, đàn bà
phải có đàn ông:
Gầu giai phải
có tay chồng,
Một mình thui
thủi gầu sòng, cực chưa ?
Bu mày nắng
sớm, chiều mưa.
Sơn hà, xã
tắc, cày bừa…Thầy em.
Thân này, ham
rượu, thèm nem,
Cái lúm đồng
tiền…ừ hữ cũng ham.
Nghe
giọng tưng tửng vẫn thấy có cái gì đó ấm áp, thú vị và đồng cảm. Đó là chuyện
của nhân loại cổ kim đông tây đều thế, cũng là chuyện của đàn bà, đàn ông, con
gái, con trai làng Trèm, huyện Từ, Hà Nội, cũng là chuyện của hôm nay và ngày
mai…đều như thế!
Phải chăng đó chính là bản chất của
nét dân gian - hiện đại trên bình
diện nội dung tư tưởng mà Nguyễn Hiếu đã thấu
thị, khải thị trong nhị bình thi
này?
Dưới đây, tôi muốn bàn kỹ hơn tính
chất dân gian – hiện đại trong hai
bài thơ của Nguyễn Hiếu trên phương diện nghệ
thuật ngôn từ. Ở đây, cụ thể là nghệ thuật vận dụng cực kỳ khéo léo, linh
hoạt và hiệu quả vốn ca dao, tục ngữ, thành
ngữ - những lời ăn tiếng nói dân gian của ông cha ta xưa. Tôi cho rằng, với
2 bài thơ này, đó là 1 dụng ý nghệ thuật, 1 thủ pháp nghệ thuật
của Nguyễn Hiếu. Và dụng ý, thủ pháp ấy đã mang lại hiệu quả bất ngờ. Nghĩa là,
theo tôi, anh đã rất thành công.
Có thể nói, sự vận dụng chất liệu văn
học dân gian ở đây vừa đậm đặc vừa dàn trải và đan xen vào bài thơ, từ câu đầu
đến câu cuối. Có những câu trích nguyên
văn từ ca dao, tục ngữ, thành ngữ;
nhưng đa phần là lẩy ra 1 vài hình
ảnh, móc vào những đưa đẩy của lời thơ hiện đại, tạo nên âm hưởng và gợi tả mới,
mang đậm hơi hướng cuộc sống hôm nay.
Chẳng hạn đoạn:
… Mặt xạm, tóc xơ,
Vú mướp
tồng tềnh quăng sau áo mỏng,
Lửa
tắt, cơm sôi,
Con
nguệch mặt đòi ti,
Chồng ngầy ngà tòm tem!
Bố ho
sù sụ khêu đèn,
Lợn kêu
eng éc. Lũ em gõ nồi!...
Ai chẳng biết câu ca dao nổi tiếng:
Đang khi lửa tắt, cơm sôi,
Lợn kêu, con khóc, chồng đòi tòm tem!
Một lần nữa được lạ hóa (grôtếch) trong thơ Nguyễn Hiếu với sự chi tiết hóa mang
dáng dấp tiểu thuyết phong tục - thế sự. Những từ nguệch mặt đòi ti, ngầy ngà,
rất sống động. Chi tiết bố ho sù sụ khêu
đèn và lũ em gõ nồi là những quan
sát, ấn tượng và sáng tạo riêng của Nguyễn Hiếu.
Hoặc đoạn đầu bài Đàn ông…:
Một thủa làng
tôi
Đàn
ông nhiều vô kể
Đầy
đình, chật điếm, ngập đê.
Gà
gáy canh tư đã rời hơi vợ
Toòng
teng điếu cày, nùn rơm,
Con
trâu đi trước.
Thằng người
chập choạng bước sau,
Áo
tơi, nón lá.
Mẹ
hĩm trên đồng cạn,
Bố
cu dưới đồng sâu,
Mồ
hôi trắng muối áo nâu,
Chiêm
qua, mùa tới dãi dầu gió sương.
Tôi đã lẩm nhẩm đọc đi đọc lại mấy lần
đoạn thơ này và cứ khúc khích một mình vì cái duyên hóm, cái nụ cười mủm mỉm
toát ra từ giọng thơ đến lời thơ.
Rõ ràng, từ ba câu ca dao quen thuộc:
Con trâu đi trước, cái cày đi sau,
Trên đồng cạn, dưới đồng sâu,
Chồng cày, vợ cấy, con trâu đi bừa…
Đã được hiện đại hóa, thơ hóa, tiểu
thuyết hóa một cách tài hoa. Hình ảnh thằng
người chập choạng bước bập bõm đi sau con trâu; vì trời còn tối lắm, vì
ngái ngủ, vì vừa rời hơi vợ…! Mà lại dùng thằng
người chứ không nói anh chồng, hay
anh chàng, đàn ông… Bởi vì đó là bố cu,
đối với mẹ hĩm, một cách nói dân dã,
suồng sã, vô tư và khỏe mạnh của ngôn
ngữ dân cày.
Hoặc đoạn:
Một thời làng tôi:
Đàn
ông vợi đi vô kể,
Tùng
tùng trống gọi ra đi,
Áo
màu đất đổi áo xanh rừng,
Mẹ
cu cứng mồm hô câu “vắt, diệt”
Yếu
trâu hơn chán khoẻ bò.
Vắng
bóng bố em. Mộng giường cọt kẹt
Rô
ron rán ròn không kẻ nhắm.
Ai
bắc cầu ao, chiều bu nó tắm,
Thóc
giống cắn chuột trong bồ,
Mạ
già thành ống. Ai lo cho tày.
Cũng là một đoạn thơ dân gian – hiện đại vui hóm mà cảm động
nhớ về những tháng năm chiến tranh chống ngoại xâm giữ nước, giữ làng ác liệt.
Nhiều nhà thơ, nhạc sỹ đã ca ngợi
người phụ nữ thay trai với đường cày đảm
đang, hào hùng 1 thuở; nhưng tôi đã giật
mình khi đọc câu thơ Nguyễn Hiếu:
Mẹ cu cứng mồm hô câu: Vắt, diệt!
Miệng tôi cơ hồ cũng cứng lại vì xót xa và cảm phục người đàn
bà làng tôi, người phụ nữ Việt Nam thay chồng, thay trai đảm đang những công
việc nặng nề chỉ dành riêng cho đàn ông. Cứng
mồm vì rét buốt, vì mệt nhọc, vì gắng sức ra lệnh cho trâu, nhưng đường cày
vẫn thẳng ngay, chẳng kém đường cày
của cha, anh, của bố nó!
Còn câu: Vắng bóng bố em. Mộng gường cọt kẹt…Ai bắc cầu ao chiều bu nó tắm… trần trụi, táo bạo mà đẫm thương
yêu, xót xa. Rô ron rán ròn không kẻ nhắm
… nối tiếp và nhấn lại hình ảnh ở bài trên, hay ở chỗ 4 phụ âm r điệp lại liên
hồi khiến người đọc thơ cũng muốn thèm, chảy nước miếng! Đến câu Thóc giống cắn chuột trong bồ trích
nguyên văn nửa câu ca dao nói ngược
kết với thành ngữ mạ già thành ống đã
cô đọng lại cái sự thiếu vắng người đàn ông trong gia đình nó khổ sở đến như
thế nào, để càng thấy rõ đức hi sinh của người đàn bà, người vợ, người mẹ trong
chiến tranh lớn lao, đáng trân trọng biết bao nhiêu!
So với những nhà thơ Việt Nam thường hay
vận dụng ca dao, dân ca, tục ngữ, thành ngữ như Nguyễn Bính, Tố Hữu, Hoàng Cầm,
Nguyễn Duy… trên một mức độ nào đó, tôi cho rằng Nguyễn Hiếu đã tìm được cách
riêng đầy hiệu quả trong thơ mình (mặc dù anh mạnh hơn về văn xuôi). Chất dân gian - hiện đại trong thơ Nguyễn
Hiếu nổi lên khá đậm. Đó là sự kết hợp giữa các thể thơ 3, 4, 5 tiếng, thơ tự
do với thơ lục bát một cách nhịp nhàng, kết hợp hình ảnh, vần điệu và giọng
điệu một cách có vẻ tự nhiên, dễ dãi mà thực sự là dụng công, công phu và ở
nhiều trường hợp, anh đã thành công. Những câu
lục bát trong cả 2 bài đều có ý vị riêng. Có phần ngây thơ, có phần ngoa
ngoắt, có khi điệu đàng, có lúc lại ra vẻ vụng về và khi cần lại cũng có thể
vút lên hùng tráng.
Nhược
điểm của thơ Nguyễn Hiếu là lời chưa
đúc. Bên cạnh 1 câu hay, 1 hình ảnh đắt giá là không ít câu, hình ảnh trung
bình, dễ dãi và trùng lặp. Chẳng hạn: cả 2 bài đều dùng hình ảnh la đà (ngọn tre mờ gật… và nâng be quốc lủi hát câu…). Câu đầu còn tàm tạm,
nhưng đến câu 2 đã bắt đầu thấy sáo
rồi!
Theo ý riêng tôi, bài Đàn ông làng tôi hơi loãng và có phần yếu
hơn so với Đàn bà làng tôi. Có lẽ bởi
anh quá chú ý đến tính đối xứng mà
chưa chú ý đến tính tương phản trong
số phận và tính cách của phái mạnh so
với phái yếu ở làng tôi chăng?
Nếu Nguyễn Hiếu chịu khó gia công tinh, chắc và sáng tạo hơn nữa trong việc lựa chọn tứ thơ, hình ảnh thơ, đặc biệt
trong sự vận dụng văn học dân gian thì chắc anh sẽ còn gặt hái được những thành
công sắc nhọn hơn khi biểu hiện tính chất dân
gian - hiện đại của thơ mình./.
Trèm, chập choạng - đêm 8 – 12 – 2013
ĐV
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét