Thứ Hai, 3 tháng 2, 2014

HỒN THƠ THỤY TRUNG

Đường Văn


HỒN  THƠ   THỤY TRUNG


(Thay lời Tựa Thụy Trung thi tập (1928 – 1995)

TS. ĐƯỜNG VĂN

                 Cụ Thụy Trung Nguyễn Đăng Tung (1914 – 1995) là một trong 10 vị cán bộ lão thành cách mạng (tham gia hoạt động phong trào đấu tranh Mặt trận Bình dân, Mặt trận Phản đế từ cuối những năm 30 thế kỷ trước) của làng Trèm – xã Thụy Phương, huyện Từ Liêm, Hà Nội. Các cụ: Hoàng Thúc Kỉnh, Hoàng Thúc Đính, Hoàng Thúc Khiêm, Chử Trắc Lộng, Lý Ông Cầu… và Nguyễn Đăng Tung* có thể xếp vào hàng Thập vị hiền hiếm hoi được Đảng giao trấn giữ một vùng hiểm điạ tây bắc Thủ đô Hà Nội suốt mấy chục năm cách mạng, kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ và xây dựng CNXH, trên quê hương làng Trèm yêu dấu.
             Bút hiệu và bí danh Thụy Trung của cụ tự đặt cho mình, thật là ý nghĩa. Nó thể hiện lòng quyết tâm, trung thành, son sắt với lý tưởng cộng sản, với Đảng quang vinh, với cách mạng, với Bác Hồ vĩ đại, với nhân dân và quê hương Thụy Phương sâu nặng nghĩa tình (trung). Nó còn mang nghĩa ẩn tàng tính cách trung thực, kiên trinh, đẹp đẽ và trong sáng (thụy). Với bút danh ấy, cụ Nguyễn Đăng Tung đã làm thơ từ buổi thiếu niên (14 tuổi, năm Mậu Thìn, 1928) tới mùa xuân cuối cùng, xuân Ất Hợi (1995) của đời, năm cụ đã 82 tuổi). Một đời thơ 67 năm kết tụ lại trong Thụy  Trung thi tập (di cảo chép tay) đúng 65 bài. Hai con số tưởng như ngẫu nhiên, thật kỳ lạ và thú vị. Tính trung bình cứ mỗi năm cụ Thụy Trung lại cho ra lò 1 bài thơ mới mà mình tâm đắc. Kể ra, như vậy là quá ít! Nhưng quy luật của nghệ thuật là quý hồ tinh bất quý hồ đa (ít mà tinh hơn nhiều mà tạp).
             Đọc kỹ di cảo bản thảo tập thơ chép tay với nét chữ đều đặn, chân phương và sáng sủa của tác giả đã mờ phai theo thời gian, tôi luôn cảm thấy hồn linh cụ Nguyễn Đăng Tung vẫn bảng lảng đâu đây trong hồn thơ trữ tình cách mạng Thụy Trung, vẫn quấn quýt cùng con cháu gia đình, giữa quê hương làng Trèm – Thụy Phương đang mạnh bước trên con đường đổi mới thành làng văn hoá – đô thị văn minh - hiện đại trong 2 thập kỷ đầu thế kỷ 21.
             Căn cứ vào thời điểm sáng tác và chủ đề tư tưởng, có thể tạm chia Thụy Trung thi tập thành 2 giai đoạn chính:
             1. Từ bài thơ đầu tay đến trước Cách mạng tháng Tám  (6 bài) viết trong 15 năm (1928 – 1943).
             2. Từ hòa bình lập lại đến  năm tác giả qua đời: (58 bài). Viết trong 30 năm. (Khoảng hơn 20 năm, từ 1945 – 1964, Thụy Trung hình như không viết bài thơ nào?! Có lẽ vì quá bận công tác?! Hoặc di cảo bản thảo hiện con cháu chưa sưu tầm được?!)
             Phần này lại có thể chia thành các chùm thơ với các chủ đề khác nhau.

    Ví dụ: Chủ đề ca ngợi lãnh tụ (Hồ Chí Minh, Lênin); chùm thơ tặng, vịnh; chùm Tự thuật, khai bút; chùm xướng – họa
              3. Ba (3) bài (đoạn) thơ Thụy Trung, được ghi lại theo trí nhớ của cụ bà Nguyễn Thị Khiêm (93 tuổi).
             Hầu hết các bài thơ trong Thi tập này đều được sáng tác theo các thể thơ dân tộcluật Đường. Bài dài nhất (Mấy lời nhắn nhủ, 212 câu) theo thể song thất lục bát. Ngắn nhất là các bài tứ tuyệt, thơ 4 câu. Ngoài ra còn có 1 bài Hát nói – Ca trù, 2 đôi câu đối quốc ngữ (1 đôi do nội đệ tặng) và 1 bức hoành phi đề nơi khai hoang: Khuổi nậm (suối nước), huyện Đồng Hỷ, Thái Nguyên, với 4 chữ Quốc ngữ giản dị, đối xứng: Trong sạch, yên vui.
             Như vậy, về thể loại và bút pháp, có thể nhận xét chung, rằng: Thơ Thụy Trung thuộc loại thơ trữ tình - chính trị kiểu mới thuộc dòng thơ yêu nước - cách mạng truyền thống cùng thế hệ với các nhà  thơ nổi tiếng Lê Đức Thọ, Tố Hữu, Xuân Thủy
    - Đề tài, chủ đề tập trung, thống nhất và rõ ràng.
    - Cảm hứng chủ đạo: Yêu nước và Cách mạng: chân thành, say sưa, nồng nhiệt.
    - Bút pháp cổ điển vững vàng, trong sáng, ít thay đổi đột biến trong suốt chặng đường hoạt động cách mạng và sáng tác thơ ca khá dài của mình.
    - Phong cách thơ hào sảng, khỏe khoắn, đầy tự tin.
    - Lời thơ dung dị, tươi tắn, thoáng hóm hỉnh. 
    Đôi khi, tác giả thích lẩy Kiều, tập Kiều hòa với thơ mình đúng lúc, đúng chỗ, khiến dư vị thơ đậm đà chất cổ điển, uyên bác, sang trọng mà ngân nga. Người lại ưa dùng những từ Hán Việt cổ, mà cho đến nay, việc giải thích nghĩa từ nguyên không phải dễ dàng! Chẳng hạn: ti tuyết (cha mẹ), nhất bất (không phải từ bất nhất?), khâm trù (Khâm Trù? Có phải tên riêng?), bão noãn (đủ đầy?)...
             Âu đó cũng là một đặc điểm chung của các nhà thơ, những người làm thơ chuyên nghiệp hay nghiệp dư cùng thế hệ cụ.
             Có lẽ cụ Thụy Trung là tác giả thơ duy nhất trong số các vị tiền bối lão thành cách mạng ở làng Trèm - xã Thụy Phương. Điều đó, khiến người đọc hôm nay và các thế hệ tương lai càng thêm trân trọng và kính yêu một chiến sĩ, một cán bộ cách mạng trung kiên, đồng thời là một hồn thơ cách mạng trong trẻo, giản dị mà mê say, niềm tự hào của lịch sử quê hương mình.
                                                                    *** 
             Bài Vịnh hoa đại rụng viết năm chú bé Đăng Tung mới 14 tuổi (1928), chỉ là 1 thử bút đầu tay, mà tứ thơ, điệu thơ, lời thơ đã quá già giặn so với tuổi! Đã tựa như thơ của một người đàn ông trung niên ưu thời mẫn thế, thậm chí thơ của vị lão niên bóng hạc ngả chiều, nhàn tản ngắm hoa, ngẫm nghĩ sự đời. Giọng, tình buồn man mác, nhưng không giấu được sự cảm thông và tự tin kín đáo:
      Phô: tươi năm cánh trắng pha vàng,
      Luồng gió kia, sao khéo phũ phàng?
Cảnh ngộ, tuy nhiên tiều tụy thế!
Còn thân, ắt hẳn vẫn còn hương.
             Đó là một điều lạ! Nhưng lạ hơn nữa là càng thêm tuổi, theo dòng thời gian, nếm trải vị đời, thơ Thụy Trung, từ các bài sau đó, không bao giờ còn biểu lộ tâm trạng buồn thương có phần lãng mạn trước cảnh vật và con người như thế nữa, mà chuyển hẳn và dứt khoát, ngày càng kiên định, mạnh mẽ sang cảm hứng xã hội, thế sự hiện thực, tràn đầy lạc quan, phấn chấn như 1 xác tín thiêng liêng, khi bản thân đã xác định và giác ngộ lý tưởng sâu sắc, suốt đời: lý tưởng Cộng sản.
             Bài Tự thuật (1) viết năm 1938, nếu đặt bên cạnh một số bài thơ cuả Sóng Hồng (Trường Chinh), Xuân Thủy, Hoàng Văn Thụ,… đã thấy không ít sự tương đồng về tư tưởng, tình cảm, về thể thơ và cách biểu hiện:
Hai chục xuân xanh có lẻ rồi!
 Tang bồng nợ ấy trả bao xuôi?
                Những toan đúc kiếm, nhưng không sắt,
           Cũng muốn săn beo, chửa gặp người.
Chàng hào kiệt trẻ tuổi tự nhủ mình:
Kiên trì luyện chí vài năm nữa,
Hào kiệt, xưa nay, vẫn đợi thời.
             Bài Thơ cũng viết năm ấy. Câu, chữ, tình điệu còn cổ kính, cứng, già hơn nữa! Cứ ngỡ như là thơ Đặng Dung, Từ Diễn Đồng, Học Lạc, 2 cụ Phan… từng vang động lòng người từ nhiều chục năm về trước trong những vần thơ đầy khẩu khí và tráng chí:
Rồng mây, ắt có phen tao ngộ,
Trời bể tung hoành, thỏa chí ta.
             Thơ Thụy Trung, dù thuộc loại thơ tả cảnh vịnh vật hay tả người hoặc thù tạc, cũng cốt để nói chí, tỏ lòng một cách trực tiếp, chân thành và nồng nhiệt. Đó là loại thơ đơn nghĩa, tứ thẳng và lộ. Hầu như không có bài thơ nào được lập tứ môt cách công phu, gián tiếp, mới lạ. Hầu như người đọc không gặp một hình ảnh, hình tượng ngôn ngữ thơ nào thật tân kỳ, mới mẻ, đa nghĩa, khơi gợi tưởng tượng bay bổng hay suy tư, nghĩ ngợi sâu xa. Thơ Thụy Trung, vì thế, dù bài gắn hay bài vừa, bài dài… cũng đều chưa có những câu thơ ám ảnh, lấp lánh hình tượng mang dấu ấn cá tính, cá nhân riêng của thi sỹ. Nhìn chung, thơ cụ càng về sau, càng trở nên đôn hậu, hiền lành và vẫn không nguôi ưu thời mẫn thế của một bậc lão thành cách mạng cao tuổi, già yếu về hưu, vẫn chăm chú theo dõi tình hình thời sự thế giới, đất nước, quê hương và thi thoảng lại được phổ vào một vài bài thơ ngắn, dài tùy cảm hứng, tấm lòng và niềm tin của 1 lão chiến sỹ, cán bộ suốt đời phấn đấu hết mình cho sự nghiệp cao cả của Đảng và cách mạng.
             Cảm hứng thơ Thụy Trung trong nhiều bài rất dồi dào, phong phú. Theo đà ngòi bút cuốn đi ào ạt, dệt thành những bài thơ dài mang dáng dấp diễn ca, trường ca cuồn cuộn, miên man như dòng sông Mẹ ngày đêm thao thiết chảy trước ngực làng Trèm*. Mấy lời nhắn nhủ, Đời đời nhớ ơn Người, Ôn lời Di chúc, Quê tôi, sau 30 năm hoàn toàn giải phóng… là những bài thơ lời, ý dường như bất tận. Đặc điểm chung của thơ dài Thụy Trung là vần điệu linh hoạt, thông suốt, tề chỉnh; sử dụng các thể thơ phù hợp (song thất lục bát, lục bát, Đường luật trường thiên…), kết hợp khá chặt chẽ giữa tự sự kể chuyện và trữ tình tả tâm trạng. Bức tranh thơ rộng, thoáng, tầng tầng, lớp lớp thể hiện cảm hứng lớn muốn vươn lên tầm vóc sử thi để ngợi ca lãnh tụ hay ca ngợi quê hương thân yêu từng bước đổi mới trên những chặng đường cách mạng. Nhưng không ít bài vì ham sự bao quát đầy đủ các mặt, các thành tố, khía cạnh của đề tài, chủ đề nên nhiều khổ thơ, đoạn thơ sa vào dễ dãi, kể lể, thống kê hoặc bình luận chính trị xã hội chung chung; có khi trở thành diễn ca nghị quyết của Đảng một cách khô khan, diễn xuôi Di chúc của Hồ Chí Minh một cách dài dòng, nhạt nhẽo.
                                                                 
             Bài Vô cùng thương tiếc người bạn trăm năm (1943) viết cách đây tròn 70 năm. Nay đọc lại vẫn thấy cảm động trước tấm tình chân thành, khắc khoải của cụ ông đau thương than khóc, vĩnh biệt cụ bà, người vợ đầu tiên của mình. Tuy chưa có được những câu thơ thật não lòng mà vẫn thông thái, hóm hỉnh như các cụ Nguyễn Khuyến, Tú Mỡ  từng khóc vợ; nhưng 4 câu thơ cuối bài,  khúc ai vãn thi Thụy Trung cũng đã truyền lan, cảm động lòng người:
           Đàn ngang cung, dây huyền bỗng đứt,
Nhớ đến câu nhất bất mà đau!
Hóa nhi sao nỡ trêu nhau?
Con côi, bố góa, âu sầu lòng ta!
             Bạn đọc nhớ cho, năm ấy Thụy Trung mới tròn 30 tuổi ta. Thế mà cũng phải đến dăm năm sau, người đàn ông thất ngẫu cương nghị, giàu tình cảm, đang xoan ấy mới lại tục huyền!
             Mấy lời nhắn nhủ (1965) con cháu, viết trên giường bệnh khắc khoải mà kéo tới 212 câu! Hầu như không có một lời nhắn nhủ riêng tư nào với con này, cháu nọ; mà chỉ là cái cớ để nói, kể chuyện chung; đã trở thành bài thơ dài nhất thi tập. Tuy không khỏi có những đoạn trùng lặp, thống kê, lại như một bài tụng ca đất nước và lịch sử cách mạng của dân tộc Việt Nam. Thật ngây thơ, thành thật và dí dỏm, Thụy  Trung dặn con cháu những lời kết mà như dặn người đồng chí đảng viên sinh hoạt cùng chi bộ:
Ngắn dài, có bấy nhiêu câu,
Con nghiên cứu, để về sau thực hành!
             Chùm thơ ca ngợi lãnh tụ Hồ Chí Minh và Lê Nin (5 bài), được 1 bài thất ngôn bát cú Đường luật Ngợi ca Người, viết và in trên báo Nhân dân tháng 9 – 1969 nổi trội hơn cả. Bởi ý khái quát, lời hàm súc, giọng điệu, tình điệu chứa chan thành kính, tụng ca vị Chủ tịch đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Người do tinh hoa Hồng Lạc  bốn ngàn năm chung đúc nên; Người được:
    Năm châu bốn biển ca công đức
Bầu bạn gần xa kính phục tài.
             Đời đời nhớ ơn Người bị dàn trải, nhưng sáng tạo lại cách diễn đạt tứ thơ quen thuộc miền Nam đi trước về sau, dẫn tới tình huống đón không thấy Bác, nên phải tưởng hình dung Bác. 2 điệp ngữ ấy cứ trở đi trở lại nhiều lần, đặc tả nỗi ân hận, niềm tiếc nuối, đau đớn khôn nguôi của đồng bào nửa nước phương Nam với vị Cha già dân tộc. Đó là đóng góp riêng đáng ghi nhận và đáng quý của cụ Thụy Trung trong chùm thơ này.
             3 bài đề tài thời sự quốc tế: Tượng đài, Chuyện sử, Đàm phán cũng nổi rõ quan điểm và không khí thời sự trong nước, thế giới trong những tháng năm nước sôi lửa bỏng ấy. Khí thơ đanh thép, hừng hực, đứng vững trên lập trường sáng ngời chính nghĩa mà phê phán vĩ nhân bạo chúa hiện đại, hay lược sử ta xưa để cảnh báo kẻ thù nước lớn ngông ngạo hôm nay; hoặc diễn giải thái độ đàm phán hòa bình bình tĩnh, tự tin, kiên trì, mềm mỏng mà kiên định của chính phủ ta khiến họ không thể áp đặt, dẫn dắt 1 cách trịch thượng, bất chấp lý lẽ. Tôi cho rằng những bài thơ chính trị - thế sự ấy có giá trị sắc nhọn nhất định trong một hoàn cảnh lịch sử cụ thể đã qua; nhưng với hôm nay, in lại, không chỉ đơn thuần là ghi nhớ một kỷ niệm sáng tác, mà còn là chứng tích hùng hồn, bi tráng của 1 thời như một lời nhắc nhủ nghiêm trang: Hãy cảnh giác! Hãy sẵn sàng!
             Chùm thơ Tự thuật, Khai bút  khá thú vị với người đọc. Bởi giọng thơ hài hóm, nụ cười tự tin, tình yêu cuộc sống và con người trước mỗi mùa xuân sang, tuổi đời thêm chồng cao, sức khỏe ngày một yếu kém. Khai bút Ất Sửu (1986), khi cụ đã 73 xuân mà vẫn nảy được những câu thơ khỏe khoắn, dư vang tiếng cười sảng khoái trong cuộc sống điền viên thường nhật:
Cơm ăn ba bát, còn ngon miệng,
Rượu nhấp  lưng bầu, mới đỏ da;
Xe đạp mươi cây, chân vẫn khỏe,
Báo xem hết cột, mắt chưa nhòa!
              Ngoài bát thập mà vóc dáng còn nguyên sắc, phong độ vẫn thanh cao (Câu đối kính tặng của Nguyễn Hoán). Tới mùa xuân Ất Hợi, mùa xuân cuối cùng của cuộc đời, nhìn lại đời mình lần cuối trước khi vào cõi trường sinh, cụ Thụy Trung khiêm tốn mà vẫn tự hào, mong mỏi 1 cách thẳng thắn, chân thật:
              Không có tài, nhưng cũng chẳng hèn!
Chê thì cũng có, ít ai khen!...
       Nợ nước hiến dâng, lòng đã thỏa,
 Ơn dân đền đáp, dạ chưa yên!
             Bởi vậy, cụ vẫn chưa muốn xa con, xa cháu. Vì sự nghiệp chung, riêng còn dang dở, vẫn canh cánh bên lòng trong sự đua ganh 1 cách ngây thơ, đáng yêu với bọn thiếu niên:
  Bước đường tới đích còn dang dở,
Há chịu ngồi nhìn lớp thiếu niên!
             Quả là tuổi cao chí càng cao, không hề muốn lão giả an chi, lão lai tài tận mà là lão dương ích tráng, lão phụ khang cường, quyết đấu đến cùng với thời gian và tuổi tác.
             Chùm thơ tặng, vịnh, xướng, họa, có thể xếp chung vào loại thơ thù tạc xã giao hiếu hỉ khá phong phú. Vì nó rất phù hợp với người cao tuổi, về hưu. Điều đáng chú ý là Thụy Trung sử dụng lối thơ này từ những năm hoa niên cho tới tuổi già. Bài nào, dù họa, dù xướng, cũng khá già giặn, chững chạc. Tình thơ, tình bạn thắm thiết, nồng nàn, tứ thơ, ý thơ vừa giống vừa khác với thi hữu trong những cuộc xướng – hoạ, thù - tạc ở những hoàn cảnh khác nhau. Chẳng hạn, đoạn thơ hồ hởi, ấm áp và tươi vui tình đồng chí của Xuân Thủy trong buổi từ biệt Trại trồng Bông, cơ sở cách mạng bí mật của gia đình cụ Đăng Tung làng Trèm:
Tôi đến nơi đây, một buổi mai,
         Khách  chào chủ một, chủ chào hai!
      Bỗng trong giây lát, trong im lặng
   Chủ liếc vu vơ, khách ngắm trời!
             Được Thụy Trung họa nguyên vận:
Vầng ô vừa lấn ánh sao mai,
       Một khách phong hào, vẹn cả hai.
Anh đến lúa tơ, sương trĩu lá,
  Mừng reo lớp lớp tận chân trời.
             Tuy thơ họa chưa thực tài hoa, hóm hỉnh bằng thơ xướng, nhưng cũng đâu kém phần duyên dáng?!
             Nhìn tổng quát, những bài thơ viết về đề tài và sử dụng bút pháp này thường rất khó tránh khỏi sự khuôn sáo, giao đãi hời hợt. Thơ cụ Tung cũng không ngoại lệ: một số bài, câu, đoạn còn dễ dãi. Bù lại, được cái tâm sáng, tình thật và đặc biệt khiêm cung, thể hiện lòng biết ơn chân thành trong tình bạn, tình đồng chí. Nhất là một số bài tặng các anh chị em y tá, bác sỹ, hộ lý phục vụ tại các bệnh viện, nhà an dưỡng. Họ từng nhiều đợt, nhiều lần tận tình điều trị, chăm sóc sức khỏe cho cụ Tung.
             Những bài thơ vịnh cảnh của Thụy Trung thường thiên tả cảnh thiên nhiên bên ngoài mà chưa vươn tới sự hòa hợp của cảnh – tình thành những bức tranh tâm cảnh sâu sắc.Tuy vậy, đôi khi cũng phác họa được những nét bút màu sắc, âm thanh trẻ trung, hiện đại, tình tứ, khá táo bạo:
Rập rờn sóng bạc hôn bờ cát
       Gay gắt nắng vàng hiếp rặng cây.
             Dường như thấp thoáng một chút biển lãng mạn của Xuân Diệu, một chút nắng của Hàn Mặc Tử siêu thực thuở nào. Nhưng những câu mới mẻ như thế không xuất hiện lần thứ hai trong thi tập Thụy Trung!
             Cuối cùng, thấy cần phải nói đôi câu về tấm lòng chung thủy, son sắt, tình yêu vợ chồng đằm thắm vượt thời gian và trí nhớ đáng nể của cụ bà Nguyễn Thị Khiêm, 93 tuổi, qua 3 bài thơ của cụ Tung vẫn khắc ghi trong hồi ức dằng dặc nhớ thương của người vợ tào khang. Kế mẫu - mẹ đẻ anh Nguyễn Đăng Sơn quả thật không hổ danh là người phụ nữ làng Trèm giàu tình cảm, thông tuệ, đảm đang.

***
             Mùa xuân Quý Tỵ, tháng 3 – 2013, trong quá trình chuẩn bị biên soạn tập Đặc san Văn nghệ Hương Chèm (5), chúng tôi được anh Nguyễn Đăng Sơn (thôn Tân Phong, xã Thụy Phương) cho mượn đọc tập di cảo viết tay Thụy Trung thi tập của người cha quá cố Nguyễn Đăng Tung. Đọc qua, tôi đã biết đây là một trong những di sản lịch sử, văn hóa gia đình vật thể và phi vật thể quý giá, thiêng liêng, không gì có thể thay thế với anh và gia đình anh. Tôi đã chân thành khuyên anh nên bàn bạc với gia đình, chuẩn bị in ấn và giới thiệu tập thơ này một cách đàng hoàng, xứng với tầm vóc, giá trị lịch sử, văn hóa làng xã quê hương của nó. Sau khi Tuyển tập Văn nghệ Hương Chèm ra mắt (7 – 2013), anh Sơn và gia đình đã chính thức nhờ cậy và ủy nhiệm tôi biên tập, sắp xếp, tu chỉnh lại tập bản thảo di cảo quý ấy để đưa in với hình thức đẹp, trang trọng, phát hành rộng rãi trong nội bộ gia đình và thôn làng quê hương, nhân dịp kỷ niệm 100 năm ngày sinh tác giả, thân phụ Thụy Trung Nguyễn Đăng Tung (1914 – 2014), nhằm bày tỏ lòng kính yêu và biết ơn sinh thành, dưỡng dục của người cha chiến sỹ– thi nhân lão thành làng Trèm, đất Thụy.
             Tôi đã vui vẻ nhận lời và cùng anh mau mắn xúc tiến công việc. Cho đến hôm nay, về cơ bản, tập sách đã hoàn thành. Tôi tự thấy mình đã cố gắng và đã hoàn thành trách nhiệm với anh bạn chí hiếu và gia đình cụ Thụy Trung.
             Thay lời hiếu tử Nguyễn Đăng Sơn, tôi muốn mượn ý 4 câu thơ Tố Hữu (trong bài Mẹ Tơm (Gió lộng, 1961) để cùng  Trưởng nam khấn vọng hồn linh cụ Thụy Trung, thân phụ anh:

         Thắp nén nhang thơm, mát dạ Người!
 Xin về chứng giám, Phụ thân ơi!
Thi tập vừa xong, làng đổi mới,
         Chạnh nhớ Trèm xưa, khác mấy vời!*

             Với tư cách một kẻ hậu bối, vãn sinh thế hệ con cháu, một  người bạn anh Đăng Sơn, tôi xin được có vài lời giới thiệu Thụy Trung thi tập, như trên; ngõ hầu dẫn đưa hồn thơ Thụy Trung đến với dân làng Trèm cùng bạn đọc yêu thơ gần xa./.

    
·        THỤY TRUNG THI TẬP (1928 – 1995): tác giả Nguyễn Đăng Tung (1914 – 1995), xuất bản 1 – 2014.
·        Đọc Vệt xoáy trước ngực làng (tiểu thuyết của Nguyễn Hiếu - nhà văn làng Trèm).  Trong bộ sách: Nguyễn Hiếu: Tuyển tập; NXB Hà Nội, năm 2010.
·         Nguyên văn khổ thơ trong bài Mẹ Tơm của Tố Hữu:
Đốt nén hương thơm, mát dạ Người,
Hãy về vui chút, mẹ Tơm ơi!
Nắng tươi xóm ngói, tường vôi mới,
    Phấp phới buồm  dong, nắng biển khơi!
* Sách Lịch sử cách mạng xã Thụy Phương (1935 – 2012); NXB Hà Nội, 2013; tr. 159.
   10 vị (Thập vị hiền) CBLTCM xã Thụy Phương. Đó là:
            Lý Ông Cầu, Nguyễn Văn Chấn, Nguyễn Văn Côn, Hoàng Thúc Đính, Lê Văn Hữu (Lê Hoàn), Hoàng Thúc Khiêm, Hoàng Thúc Kỉnh, Trử Trắc Lộng, Nguyễn Văn Ninh, Nguyễn Đăng Tung.

Thụy Phương, trọng thu, 20 – 10 – 2013.
TS.ĐV


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét