THI THOẠI, ĐẦU HẠ
ĐƯỜNG VĂN
3.
TRƯỚC
GẢNH ĐÌNH TRÈM
Lại sắp đến Lễ Hội Đình Trèm thường niên
năm nay (14 – 15 - 16 tháng năm Giáp Ngọ). Tôi với Bắc Lê và Nguyễn Đăng
rủ nhau ra đình thăm Hiểu Lê - một ông bạn thủ
từ ở đó cũng đã được vài ba năm nay.
Bên ấm nụ nước vối mới pha, tỏa một mùi hương đặc biệt thanh mát, thức uống ưa
thích của hai cụ từ, chúng tôi hỏi
thăm Hiểu Lê xem năm nay chương trình lễ hội ba làng có gì đặc biệt mới mẻ so với năm ngoái không. Tôi nhắc ông
bạn gìa cái lỗi chính tả đáng tiếc của văn bản khắc trên tấm bia đá ngay trước
Gảnh Đình. Hiểu Lê thoáng nhíu mày, rồi kéo tay hai đứa tôi cùng đứng dậy:
-
Ta cùng ra ngoài
đó kiểm chứng lại lần nữa cho chắc!
Thế là,
trước Gảnh Đình Trèm, sau khi đã một lần nữa mục sở thị sự sơ sót của người kiểm tra thợ khắc đá còn lưu dấu sai
lỗi chính tả từ (trấn (giữ, thủ, trị)
và chấn (oai, phấn). Lỗi cần được sửa
chữa trong một dịp gần nhất. Xong việc, chúng tôi lại thong thả cùng thưởng ly
café sáng trong quán Cây đa cạnh đó,
đứng tựa lan can xi măng, ngóng ra mặt sông, nhìn sang bờ Bắc mà bàn luận tiếp
chuyện thơ phú văn chương. Mé tay phải, gần sát bờ nước, một chiếc xà lan lặc
lè cát vàng đang áp mạn. Chiếc máy cần cẩu – gầu xúc cỡ đại đang cần mẫn ngoạm
từng gầu cát lớn từ xà lan chuyển lên thùng xe tải ben cũng cỡ đại, đậu sát phía trên. Ngoài luồng nước giữa sông, lại
một chiếc xà lan khác chở than nặng mấp mé mớn nước đang rì rì ngược dòng lên
phiá Việt Trì. Sông Cái năm nay bắt đầu vào mùa nước lên mà vẫn có vẻ êm ả lạ!?
***
Đăng Nguyễn
bỗng phấn chấn nhìn tôi và Bắc Lê:
-
Này, hai ông! Câu
chuyện bài thơ Chú đi tuần, có lẽ hôm
nay mới đi vào hồi kết thú vị, mà
tôi, không, hai ông cháu tôi đã góp phần làm nên thi thoại mở đầu buổi sớm mai đó.
-
Là sao? Hôm qua
ông đã chẳng đọc cho tôi toàn văn bài thơ theo trí nhớ tuyệt vời của ông và tôi
đã chép nguyên văn với độ tin tưởng cao, rồi đưa vào phần đầu thi thoại Bên bờ Ao Sen đó thôi. Còn gì nữa mới
nữa?!
-
Này đây! Xem kỹ
đi! Đăng bỗng rút trong túi ra muốn cuốn sách dày vừa phải mà thoáng nhìn, tôi
đã nhận ra ngay cuốn SGK Tiếng Việt lớp
5, tập 2, Tiểu học do GSTS.
Nguyễn Minh Thuyết chủ biên, NXBGD, tái bản năm 2013).
Tôi và Bắc
Lê ngạc nhiên, chưa kịp giở; Nguyễn Đăng lại hối hả nhắc:
- Giở ngay tới trang 51 – 52!
Tôi vội mau
mắn lật sách. Thì ra bài thơ Chú đi tuần
là một bài Tập đọc được in ở đó. Đọc
kỹ hơn, lần lượt từ trên xuống dưới: thấy tranh minh họa màu xanh nhạt, nét
đen, vẽ mấy anh chiến sỹ Vệ quốc quân áo trấn thủ, ô quả trám, mũ lưới đính sao
vàng, đang đi tuần trên đường phố. So với bức minh họa hồi tôi học lớp 3 trong
sách Tập đọc xưa thì bức này không
đẹp bằng! Văn bản bài thơ dừng ở câu:
Cháu ơi! ngủ
nhé cho say!
Như
vậy, so với văn bản dựa vào trí nhớ của
Nguyễn Đăng thì thừa câu cuối: Cháu ngoan
của chú giờ này, biết không?
Dưới ghi tác
giả: Trần Ngọc (?!). Tiếp theo là 2 chú thích: giải thích các cụm từ: học sinh miền Nam và đi tuần. Cuối cùng là 4 câu hỏi hướng
dẫn học sinh tìm hiểu bài.
Đọc qua một
lượt, tôi và Bắc Lê cùng trông sang Đăng Nguyễn:
-
Vì sao anh lại
biết trong sách này có bài thơ ấy?
-
Thì cũng tình cờ
thôi! Con cháu tôi nó vừa học xong lớp 5 mà lại! Nghe lỏm ông nội đọc đi đọc
lại mấy câu thơ Chú đi tuần, thế là
nó reo lên:
- Cháu cũng thuộc!... Rồi nó đọc 1 lèo cả bài thơ mà
tôi đang cố gắng loay hoay phục hồi văn bản. Tôi mừng quá, và ngạc nhiên nữa,
hỏi luôn:
- Vì sao cháu thuộc được bài thơ này?
- Thì bài học thuộc lòng của chúng cháu năm vừa rồi
mà!
- À ra thế! Vậy, đưa ông xem lại cuốn SGK Tiếng Việt của cháu nào!
Và tôi mở sách tìm, nhanh chóng thấy Chú đi tuần đây rồi! Hóa ra tác giả của
nó là Trần Ngọc. Mấy ông có biết gì
về ông này?
-
Thế là mối nghi
vấn về tác giả đã được giải đáp. Còn Trần
Ngọc là ai, thi nghiệp, sự nghiệp thế nào thì lại phải nhờ đến google, may ra…
-
Thật hay và khá
bất ngờ! Cảm ơn ông cháu ông! Nhưng tôi hỏi hai ông: So sánh 2 văn bản, thấy
văn bản sách Tiếng Việt, bớt 1 câu
cuối cùng. Chẳng lẽ ông Đăng nhớ sai?
-
Không bao giờ!
Đăng Nguyễn thoáng đỏ mặt, khẳng định chắc nịch.
Tôi trầm ngâm phán đoán:
-
Tôi biết: Ông
Đăng nhớ đúng và nhớ rất giỏi! Vì sau gần 60 năm mà không sai 1 chữ. Đảm bảo độ
chính xác tới 100%! Còn bản trong sách GK hiện hành thiếu 1 câu cuối, tôi cho
đó là kết quả của người biên soạn, biên tập. Tôi thấy, bỏ đi như thế là phải,
vừa gọn vừa gợi mở hơn. Bởi câu thơ cuối cùng: Cháu ngoan của chú giờ này, biết không? là 1 câu hỏi không lời đáp,
chỉ nói thêm 1 chút nỗi lòng, tâm trạng của chú chiến sỹ. Các cháu đang ngủ
say, làm sao có thể biết được ngoài cửa sổ có các chú đang đi tuần qua, đang
nhìn các cháu say sưa giấc nồng?
Đó là việc làm của 1 soạn giả, biên tập hiểu biết,
có nghề và tinh thông nghiệp vụ.
-
Ông Văn bàn có
lý! - Bắc Lê tiếp – Nhưng tôi lại băn khoăn điều này: Nếu sự cắt đó là của người soạn sách, hay nhà
biên tập, thì liệu họ có hỏi ý kiến tác giả Trần
Ngọc không nhỉ? Hoặc giả dụ như tác giả đã qua đời rồi, thì sao?
Nguyễn Đăng chen ngang:
-
Muốn biết, ông có
thể điện hỏi ông Nguyễn Minh Thuyết chủ biên là ra ngay thôi mà! Tôi nghe ông
Lê có quen với vị GSTS. khá nổi tiếng ấy, có thể gọi điện hỏi xem sao?
-
Bắc Lê chậm rãi:
-
Để tôi xem xem
đã! Nhưng tôi muốn nhấn mạnh với các ông một điều quan trọng hơn chuyện sửa văn
bản ấy, rằng: Các ông có thấy lạ không? Bài Chú
đi tuần này có thể sánh với các bài Đêm
nay Bác không ngủ (Minh Huệ) Lượm (Tố
Hữu), Ông lão đánh cá và con cá vàng (Truyện cổ tích của A. Puskin). Đó là những văn bản văn,
thơ rất hiếm hoi có tuổi thọ cao nhất, đã và đang tồn tại trong SGK Ngữ văn phổ thông Việt Nam từ ngày hòa
bình lập lại đến nay. 2 bài kia, tôi biết từ lâu. Đến hôm nay, mới biết thêm Chú đi tuần! Thật thú vị: tính đến nay, đã có 3 thế hệ, 3 đời học sinh nối
tiếp nhau học tập những áng văn chương đó. Mà như thế thì, tôi dự đoán: cái
chương trình SGK đổi mới năm 2015 tới đây, 3 bài ấy vẫn có mặt, tiếp tục làm
bạn, làm thầy thế hệ học sinh Việt Nam OX. Các ông thấy có hay không?
-
Nói chung là hay!
Vì tìm được những văn bản mới thay thế, hội đủ các điều kiện đâu có dễ! Nhưng,
chẳng lẽ cứ học mãi mấy bài đó sao?
-
Đó không phải là
việc của ông lo mà là việc của các vị chuyên gia chương trình và viết sách GK
năm 2015. Liệu ông Văn có được mời tham gia một chân như hồi năm 2004?
-
Chắc là không! Vì
mình hưu đã lâu. Thiếu gì anh tài trẻ tráng! Chuyện ấy tôi chẳng bận tâm! Nhưng
tôi cứ nghĩ ngợi thêm nữa về bài Chú đi
tuần nói riêng và mấy bài văn thơ có tuổi thọ cao trong các SGK của chúng
ta. Tôi cho rằng, thời gian và bạn đọc (học sinh, giáo viên, phụ huynh…) sẽ là
người thẩm định công minh và tình - lý nhất. Tôi cho rằng, Chú đi tuần, xét riêng về mặt
nghệ thuật, thì chưa thật xuất sắc, nhưng nhìn chung tổng thể trong mối
quan hệ với các yêu cầu tư tưởng, giáo dục, tâm lý lứa tuổi… thì lại chứng tỏ
sự thỏa mãn tối ưu của nó. Thực tiễn
đã chứng minh rằng từ đời ông bà, qua cha mẹ đến đời các cháu chúng ta đều đã
được học và đều yêu thích nó, đều nhanh chóng thuộc lòng nó, lưu giữ nó bền lâu
trong bộ nhớ của mình. Có được một văn bản hiếm quý như thế, hà cớ chi phải
nghĩ đến chuyện thay mới? Bởi Chú đi tuần
đã trở thành cổ điển, mẫu mực làm bài học giáo dục nhân văn, giáo dục xã hội
tốt cho các thế hệ trẻ được chứng nghiệm từ hơn nửa thế kỷ qua. Mặc dù câu
chuyện về trường học sinh miền Nam ở Hải
Phòng đã từ lâu trở thành lịch sử.
-
Tôi thấy ông Văn
vẫn còn máu nghề nghiệp lắm! Chỉ một bài thơ nhỏ Chú đi tuần cũng khiến chúng ta có thể vui vẻ bỏ ra 3 buổi để luận
bàn thi thoại rồi! Vậy ông Lê lúc nào
tiện, cứ tìm hiểu thêm qua ông Thuyết về tác giả Trần Ngọc, về cách thức biên soạn, biên tập SGK. Ông Văn thì tra mạng. Có khi, ta lại biết được thêm
nhiều điều lý thú khác, làm chủ đề cho cuộc thi
thoại thứ tư chăng?...
-
…
-
Còn bây giờ, tôi muốn chuyển chủ đề cho nó cởi
mở, tươi mát hơn một chút… Các ông có thích thơ
tình của Nguyễn Đình Thi? Thích nhất bài nào, và vì sao?
-
Tôi không thích
lắm mấy bài thơ không vần của cụ Thi
viết hồi kháng chiến chống Pháp; nhưng lại rất yêu bài nhớ mà cụ viết tặng M.
(người yêu cụ: cụ Mađơlen Ripphô
(Pháp). Nhớ được nhạc sỹ Hoàng Vân phổ nguyên văn thành ca khúc Nhớ. Giọng nam trung số 1 của Việt Nam
hồi ấy,cố nghệ sỹ ND Qúy Dương từng
thể hiện rất thành công.
-
Tôi cũng rất
thích bài ấy, nhưng chủ yếu là thích qua bài hát, qua giọng hát Quý Dương. Phải
công nhận, âm nhạc, giai điệu phù hợp có sức chắp cánh và nâng cao giá trị của
lời thơ lên rất nhiều. Cái duyên thơ –
nhạc - nhạc – thơ mới kỳ diệu làm
sao! Nguyễn Đình Thi vào nửa cuối thập kỷ 70 thế kỷ trước còn có 1 bài thơ nổi
tiếng rồi cũng được phổ thành bài hát nổi tiếng nữa: Lá đỏ. Nhạc Hoàng Hiệp.
Quý Dương, rồi sau đó NSND Quang Thọ hát. Tất nhiên, mỗi bài
hay 1 cách; nhưng hình như trong thơ tình của cụ Thi có điểm chung là sự khắc khoải trong đối lập: vất vả đau thương, tươi thắm vô ngần!
Nét đặc biệt nhất là sự hòa quyện tự
nhiên, ngọt ngào, không hề tỏ ra
cộm vướng, gợn sự lên gân, gò gượng giữa tình cảm riêng và tình cảm chung, tình
yêu lứa đôi và tình yêu đất nước, nhân dân, lý tưởng.
-
Tôi tán thành ý
kiến ông. Nhưng nếu bây giờ còn có ai đó viết thơ tình, kiểu:
Anh yêu em
như anh yêu đất nước
hoặc:
Chúng ta yêu
nhau kiêu hãnh làm người!
Thì nhất
định sẽ bị chê là sáo, giả dối, hô khẩu hiệu, nói từ cổ họng …! Nhưng đặt vào
thời điểm sáng tác của Nguyễn Đình Thi thì lại thấy sao mà chân thành, tha
thiết, đáng yêu và mới mẻ, tầm vóc đến thế!
-
Tôi yêu suốt mấy
chục năm qua những câu thơ tình cực kỳ mộc mạc mà không kém phần sang trọng
này:
Anh nhớ em, mỗi bước đường anh bước,
Mỗi tối anh
nằm, mỗi miếng anh ăn.
Viết giản
dị, chân thành mà nên thơ như thế, ngay cả chính Nguyễn Đình Thi, cũng chỉ làm
được … một lần!
-
Tôi lại thích hai
hình ảnh lãng mạn tuyệt vời trong bài thơ: Ngôi
sao lấp lánh trên đỉnh đèo Mây và
ngọn lửa rừng bập bùng trong đêm lạnh.
Vừa hiện thực vừa tượng trưng vừa tả cảnh vừa tả tình vừa triết lý.
Ngôi sao trên đỉnh đèo Mây soi đường cho
chiến sỹ hành quân cũng là ngôi sao xa,
ngôi sao em ở tận phía trời Âu, cũng là ngôi
sao mờ, sao tỏ trong ca dao trữ tình giao duyên của ông bà, cha mẹ, lại
cũng là ngôi sao lý tưởng cách mạng đang ngời ngợi dẫn đường
tuổi trẻ Việt Nam. Thật gần, thật xa; chiến tranh và hòa bình, hiện tại và
tương lai. Ngôi sao trong tim, ngôi
sao trên mũ, ngôi sao đỉnh trời… thảy đều sáng lên, vẫy gọi. Không bao giờ tắt!
Nhưng rốt cuộc là ngôi sao xa vời vợi, khắc khoải, tiếc nuối mà không với được!
Hạnh phúc là ước mơ. Chia ly mới là hiện hữu.
Còn ngọn lửa tình yêu em và tình yêu đất
nước, nhân dân, lý tưởng luôn cháy trong trái tim chiến sỹ. Ấm áp và tỏa sáng.
Cũng không bao giờ lụi tàn! Đó cũng là hiện thực, ước mơ và niềm an ủi một tình
yêu nhỏ không thành. Vì một tình yêu lớn mà chấp nhận hy sinh.
Một bài thơ
chỉ có 3 khổ, 12 câu mà mang chở được những tư tưởng, tình cảm lớn lao, sâu sắc
như thế, lại được biểu hiện bằng những hình ảnh chói lọi, rực rỡ, quen mà lạ
như vậy, không xứng là 1 trong những bài thơ tình mới mẻ, đặc sắc và độc đáo,
của thơ tình cách mạng Việt Nam vừa mới thoát khỏi cái bóng khổng lồ của thơ tình lãng mạn thời Thơ Mới đó sao?!
-
Tôi cho rằng bài
thơ Nhớ hay ở tính lý tưởng cách mạng của nó. Tôi nghĩ nếu có một cuốn Tuyển tập thơ tình thế kỷ 20 của Việt
Nam hay châu Á chẳng hạn, có lẽ phải có mặt bài này.
-
Chưa chắc! Vì cái
ấy còn phải tùy thuộc quan điểm của người tuyển chọn. Tôi chỉ biết rằng Nhớ đã có 1 thời vẻ vang của nó. Với ai,
tôi không biết, nhưng riêng tôi, đó là bài tình ca mà tôi vẫn thích ngâm nga,
bên cạnh những Tình ca của Hoàng Việt,
Tình em của Huy Du, Tình em, biển cả của
Hồng Đăng, Anh đến thăm em một chiều
mưa của Tô Vũ… gần đây là Tình ca của
Phạm Duy…Những bài ca đi cùng năm tháng, những giai điệu tự hào…
-
…
-
Ồ! hay quá, vậy
ngay bây giờ, đề nghị Nguyễn Đăng cho nghe lại Nhớ của Nguyễn Đình Thi!
-
Sẵn lòng! Nhưng
không có đàn thì làm thế nào? Từ lâu tôi đã quen hát cùng tiếng ghita đệm của Đường Văn.
-
Riêng hôm nay,
thì ông hãy lấy tạm sóng Nhĩ Hà và tiếng vỗ tay của chúng tôi làm nhạc đệm vậy!
OK?
-
…OK!
Chiều 30 – 5 – 2014. ĐV
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét