Vunhonb: Trên Blog này, tôi có viết bài góp lời với hai nhà thơ Mai Văn Hoan và Vương Trọng. Nhà thơ Mai Văn Hoan có ghé trang và có bài trao đổi lại. Xin trân trọng giới thiệu với mọi người và cám ơn nhà thơ Mai Văn Hoan!
ĐỔI
LỜI THƯA LẠI VỚI PHÓ GIÁO SƯ VŨ NHO
Trong
bài Trao đổi với nhà thơ Vương Trọng về chuyện Thúy Kiều nhớ ai, tôi mong muốn:
“Giá có thêm một vài người cùng tham gia bàn luận, trao đổi thì hay biết mấy.
Vì phải qua trao đổi, bàn luận mới sáng tỏ vấn đề, mới giúp độc giả hiểu đúng,
hiểu đầy đủ, sâu sắc hơn về kiệt tác Truyện Kiều”. Và tôi thật
không ngờ lần này lại được Phó giáo sư - một người mà tôi hết sức nể phúc về
sức viết - cùng tham gia trao đổi. Tôi rất
cảm động khi được biết Phó giáo sư “theo dõi sát cuộc trao đổi
giữa hai nhà thơ về cách hiểu một đoạn trích Truyện Kiều”. Tôi cảm ơn Phó giáo
sư đã có lời động viên: “Tôi quý trọng sự tìm tòi của nhà thơ Mai Văn Hoan…”.
Sau đây là đôi lời tôi xin thưa lại
với Phó giáo sư.
- Phó giáo sư viết: “Trong bài trả lời
nhà thơ Vương Trọng, (Tạp chí Thơ số 6 năm 2014), tác giả vẫn khẳng định phát
hiện của mình: “ Cụ Đào Duy
Anh viết “ Sau khi Thúc Sinh về thăm quê, Thúy Kiều ở lại Lâm Tri một mình,
nàng cũng nhớ cha mẹ trước rồi mới nhớ đến tình nhân” là hơi sơ suất” – Bây
giờ hình như nhà thơ không tự tin lắm chăng nên mới thay “nhầm lẫn” bằng “hơi
sơ suất”. Ở bài trao đổi với nhà thơ Vương Trọng tôi đã trình bày khá rõ vì sao
tôi nói cụ Đào Duy Anh “hơi sơ suất” khi viết “… cũng nhớ cha mẹ trước rồi mới
nhớ đến tình nhân”. Bởi trong 3 lần nhớ trước đó thì có đến 2 lần Kiều nhớ tình
nhân trước nhớ cha mẹ. Chắc điều này Phó giáo sư cũng đã biết nên cho phép tôi
không trích dẫn ở đây. Tôi nói cụ Đào “hơi sơ suất” là với ý ấy, còn cái việc
cụ Đào Duy Anh “có sự nhầm lẫn” thì tôi đã chứng minh ở bài trước rồi, thưa Phó giáo sư!
- Phó giáo sư viết: “Thật ra thì Nguyễn Du không cho ta biết nỗi nhớ
này của Kiều bắt đầu từ lúc nào. Có thể ngay sau lúc “ người lên ngựa kẻ chia bào”.
Nhưng vì sau đoạn nói nỗi nhớ, Nguyễn Du tả Thúy Kiều đang thắp hương thì
bọn tay chân nhà Hoạn Thư ra tay. Như thế nên có thể suy đoán là
ngày hẹn trở về cận kề mà chưa thấy Thúc Sinh quay lại. Nhưng dù có
cho là nàng Kiều nhớ vào thời điểm ấy đi nữa, thế thì có gì là “ hoàn cảnh dầu sôi lửa bỏng” như
nhà thơ Mai Văn Hoan tưởng tượng ra?”. Thú thực là tôi không hiểu vì sao Phó
giáo sư lại đưa giả thiết nỗi nhớ ở đoạn này của Kiều “có thể ngay sau lúc “ người lên ngựa kẻ chia bào”?
Hay là Phó giáo sư quên mất cái đoạn tiếp ngay sau buổi chia tay hôm ấy: Người về… Kẻ đi… . Rất may là Phó giáo
sư kịp nhận ra giả thiết đó không có cơ sở nên đã thừa nhận: “Nhưng vì sau đoạn
nói nỗi nhớ, Nguyễn Du tả Thúy Kiều đang thắp hương thì bọn tay chân nhà
Hoạn Thư ra tay. Như thế nên có thể suy đoán là ngày hẹn trở
về cận kề mà chưa thấy Thúc Sinh quay lại”. Tôi càng ngạc nhiên hơn khi
Phó giáo sư khẳng định: “Nhưng dù có cho là nàng Kiều nhớ vào thời điểm
ấy đi nữa, thế thì có gì là “ hoàn
cảnh dầu sôi lửa bỏng” như nhà thơ Mai Văn Hoan tưởng tượng ra?”. Thưa Phó giáo
sư! Chính Nguyễn Du trực tiếp diễn tả tâm trạng đầy lo lắng, đầy băn khoăn của
Kiều lúc đó bằng những câu hỏi liên tiếp, riết róng chứ tôi đâu “tưởng tượng”.
Nếu Phó giáo sư rơi vào hoàn cảnh như Kiều, không biết Phó giáo sư có nóng lòng
không? Có sốt ruột không? Có lo lắng không?
- Phó giáo sư viết: “Bảo rằng Kiều nhớ Thúc Sinh thì giải thích thế nào về câu
thơ: Tóc thề đã chấm ngang vai/Nào lời non nước, nào lời sắt son?
Nhà thơ Mai Văn Hoan vì mải mê chứng minh theo ý mình đã quên rằng, Kiều chỉ
thề bồi với Kim Trọng, nói lời sắt son với chàng Kim khi lần đầu hẹn ước: Tiên thề cùng thảo một trương/ Tóc
mây một món dao vàng chia hai. Bất
cứ ai đọc Kiều một cách bình thường cũng có thể nói rằng câu thơ này
Nguyễn Du tả Kiều nhớ về Kim Trọng, chứ không nhớ Thúc Sinh, vì Kiều và
Thúc hai người không có thề thốt gì cả”. Riêng điều này thì tôi thông cảm với
Phó giáo sư, đôi khi tuổi già làm chúng ta (trong đó có tôi) mắc chứng bệnh hay
quên. Tôi xin nhắc lại để giáo sư nhớ là: Thúc Sinh với nàng Kiều cũng đã từng Chỉ
non thề biển nặng gieo đến lời.
Chứ đâu phải như Phó giáo sư nói “Kiều và Thúc
Sinh không có thề thốt gì cả”.
- Phó giáo sư viết: “…Không hiểu vì sao nhà thơ Mai Văn Hoan lại cố ý hiểu “ bóng dâu đã xế ngang đầu” là
chỉ thời gian quá giờ Ngọ. Cứ cho là có cây dâu thật đi nữa thì bóng nó đã
“xế”, lại “ngang đầu” thì phải là chiều
khá sâu rồi chứ đâu phải quá Ngọ?... Rõ ràng, thi liệu văn học cổ chỉ
cho phép hiểu “bóng dâu” là chỉ tuổi tác của cha mẹ, chứ chưa có trường hợp nào
chỉ tuổi tác của một cô gái, lại là cô gái trẻ như nàng Kiều”. Xin thưa: khoảng
cách giữa Chiều khá sâu và bóng xế
ngang đầu xa nhau lắm! Phó giáo sư khẳng định “thi liệu văn học cổ chỉ cho
phép hiểu “bóng dâu” là chỉ tuổi tác của cha mẹ”. Nếu các nhà thơ xưa nay cứ
nhất nhất tuân thủ như điều Phó giáo sư khẳng định thì thơ ca sẽ nghèo đi biết
mấy! Bao nhiêu cách nói ước lệ đến tay các nhà thơ chân tài như Hồ Xuân Hương,
Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát, Nguyễn Khuyến, Trần Tế Xương, Tản Đà… đã được
biến hóa khôn lường. Bởi vậy, việc Nguyễn Du dùng “bóng dâu” để định lượng tuổi
đời của một người cảm thấy mình đang bước qua bên kia dốc cuộc đời (chứ không hẳn
phải nhất nhất là cha mẹ) thì có gì là không thể!?
-
Phó giáo sư viết: “Một sai lầm khác của Mai Văn Hoan là anh không
hiểu (hay cố tình không hiểu) câu thơ Biết
đâu ấm lạnh, biết đâu ngọt bùi. Ấm
lạnh và ngọt bùi ở đây không thể hiểu là “sự yên
thân” của nàng Kiều như Mai Văn Hoan nghĩ. Ấm
lạnh trong Truyện Kiều chỉ có
thể được hiểu nghĩa như một cách nói “ quạt nồng ấp lạnh” (Mùa hạ nóng thì quạt
cho mát, mùa đông lạnh thì ấp cho ấm)”. Văn chương vốn đa nghĩa, tôi lựa chọn
cách hiểu vừa hợp với hoàn cảnh vừa hợp tâm trạng của Kiều lúc này hơn. Nếu
hiểu như Phó giáo sư thì hóa ra Nguyễn Dụ chỉ lặp lại cách nói trước. Tài năng
văn chương cỡ Nguyễn Du rất ít khi lặp lại nếu như sự lặp lại đó không đưa đến
điều gì mới mẻ.
- Phó giáo sư viết: “… Thật ra thì do nhiều yếu tố (ước lệ và
cả việc gieo vần) cho nên Nguyễn Du viết bóng dâu tà tà và bóng
dâu đã xế ngang đầu. Chúng ta nhớ lại đoạn Nguyễn Du tả Kiều gặp Kim Trọng
:Tà tà bóng ngả về
tây (câu 51), Một vùng cỏ áy bóng
tà ( câu 97), Bóng
chiều đã ngả, dặm về còn
xa ( câu 114), Bóng tà như
giục cơn buồn ( câu 167), Bên cầu tơ liễu bóng
chiều thướt tha ( câu
170). Cứ câu nệ như Mai Văn Hoan thì thấy cụ Nguyễn Du làm thời gian xáo trộn
hết cả!”. Theo Phó giáo sư thì “do nhiều yếu tố (ước lệ và cả việc gieo
vần) cho nên Nguyễn Du viết bóng
dâu tà tà và bóng dâu đã xế ngang đầu”, tôi
nghĩ điều đó Phó giáo sư nói về ai chứ nói về một thiên tài như Nguyễn Du e
rằng không phù hợp cho lắm. Nói như vậy là vô tình Phó giáo sư đã hạ thấp tài
năng thi ca của Nguyễn Du. Tôi xin phép Phó giáo sư thử định lượng thời gian
(tất nhiên là chỉ tương đối) trong 5 câu thơ mà Phó giáo sư trích dẫn ở trên để
xem cụ Nguyễn Du có “làm thời gian xáo trộn hết cả” như Phó giáo sư nói không.
Vào tiết thanh minh thì Tà tà bóng ngả về
tây là vào khoảng 4 giờ chiều, bóng mặt trời đang “tà tà”). Một vùng cỏ áy bóng tà là vào khoảng gần
5 giờ chiều, bóng mặt trời đã “tà” chứ không “tà tà” nữa. Lúc này mặt trời sắp
lặn, hắt ráng vàng lên khắp đồng cỏ. Từ “tà tà” đến “tà” là sự dịch chuyển của
mặt trời, của thời gian. “Bóng chiều” ở câu 114, “Bóng tà” ở câu 167 và “bóng
chiều” ở câu 170 cũng đều xác định thời điểm mặt trời sắp lặn nhưng nghiêng về
diễn tả tâm trạng nhiều hơn. Điều này, một lần nữa cho chúng ta thấy cụ Nguyễn
Du rất kĩ trong việc lựa chọn từ ngữ.
Tôi hết sức trân trọng sự “góp lời” của Phó giáo sư. Nhưng tôi cũng xin khẳng định lại một lần nữa rằng: Nhà văn, nhà
thơ vận dụng hết sức sáng tạo, linh hoạt vốn sống, vốn kiến thức mà họ tích lũy
được. Rập khuôn một cách máy móc là điều tối kị
trong sáng tác cũng như trong tiếp nhận văn chương.
Huế, 20 - 9 - 2014
Mai Văn
Hoan
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét