MẤY
ĐIỀU BẤT THƯỜNG XUNG QUANH BÀI THƠ “MÀU THỜI GIAN” CỦA ĐOÀN PHÚ TỨ
VŨ NHO
Tham luận trình bày tại Hội thảo Đoàn Phú Tứ do Hội nhà văn HN tổ chức 20/9/2014
Không phải vì tác giả là người viết kịch, có duy nhất
một bài thơ được chọn vào sách “Thi nhân Việt Nam ” của Hoài Thanh và Hoài
Chân, mà bài thơ này có tính bất thường. Trong sách của Hoài Thanh và Hoài Chân
có những tác giả sau chỉ có một bài : Thúc Tề, Đoàn Phú Tứ, Vân Đài, Phan Khắc
Khoan, Thâm Tâm, Phan Thanh Phước, Hằng Phương, Mộng Huyền. Có hai tác giả được
nói đến mà không trích bài nào trọn vẹn là T.T.KH, và Trần Huyền Trân. Vậy thì
bài thơ của Đoàn Phú Tứ bất thường ở chỗ nào?
Trước hết, tuy Đoàn Phú Tứ chỉ được trích một bài thơ,
nhưng trong phần tiểu luận “Một thời đại trong thi ca”, Hoài Thanh và Hoài Chân
đã dành không ít dòng cho tác giả cùng với bài thơ. Ba lần nhắc đến Đoàn Phú Tứ
và thơ của ông.
“ Tiếp theo đó, Phong hóa luôn luôn đăng thơ mới của
Tứ Ly, Thế Lữ, Nhất Linh, Nguyễn Văn Kiện, Vũ Đình Liên, Đoàn Phú Tứ, Huy Thông”
( Thi nhân Việt Nam, nxb Văn Học, Hà Nội 1988, tr. 16).
“Cái kín đáo của thơ Pháp gần đây tôi còn
thấy ở Đoàn Phú Tứ” ( Sách đã dẫn, tr. 27).
“ Nói tóm lại,
phong trào thơ mới đã vứt đi nhiều khuôn phép xưa, song cũng nhiều khuôn phép
nhân đó sẽ thêm bền vững. Hẳn tương lai còn dành nhiều vinh quang cho những
khuôn phép này. Nó đã qua được một cơn sóng gió dữ dội trong khi các khuôn phép
mới xuất hiện đều bị tiêu trầm như thơ tự do, thơ mười chữ, thơ mười hai chữ
hay đương sắp sửa tiêu trầm như những cách gieo vần phỏng theo thơ Pháp”
(2)
Những dòng dưới đây là chú thích cho chỗ đánh số 2:
“ Tiếng ta có
bằng trắc rõ ràng. Nhiều khi chỉ đổi thanh cũng đủ không cần vần. Đọc mấy câu
này của Đoàn Phú Tứ :
Duyên trăm
năm đứt đoạn
Tình một thuở
còn hương
Hương thời
gian thanh thanh
Màu thời gian
tím ngát
Có ai ngờ là những câu không vần. Còn
như trong mấy câu này của Xuân Diệu:
Đây,
dây thơ e ấp đã lâu rồi
Chìm
trong cỏ một vườn hoa bỏ vắng
(
Lòng tôi đó một vườn hoa cháy nắng)
Xin
lòng người mở cửa ngó lòng tôi
Giá thay chữ “tôi” cuối câu thứ tư bằng
một chữ gì khác không dấu đọc lên vẫn êm. Đại khái gieo vần phỏng theo thơ Pháp
đều thừa như thế, mà lắm khi lại còn làm mất cả
âm điệu bài thơ”. ( Sách đã
dẫn, tr. 41)
Thứ hai, chỉ có bài thơ “Màu thời
gian” của Đoàn Phú Tứ là có nhiều chú
đến như vậy. Toàn bài không tính nhan đề có 18 dòng thơ chia
làm 5 khổ thì có 10 chú giải chia
cho nhan đề 1, khổ thứ nhất 1; khổ thứ
hai 2; khổ thứ ba 2; khổ thứ tư 3; khổ thứ năm 1. Mười chú giải này chiếm hơn
một trang. Trong khi lời bình cũng chỉ dài non một trang mà thôi.
Thứ ba, duy nhất trong cuốn Thi
nhân Việt Nam ,
tác giả dành lời bình cho một bài thơ cụ thể. Còn lại tất cả chỉ là những nhận
xét cho câu thơ, hình ảnh thơ hoặc bài thơ, giọng điệu thơ. Phần nhiều những
nhận xét đặc sắc, tinh tế của người có tài thẩm bình khái quát.
Cũng chỉ có bài “ Màu thời gian” mới
có hai thao tác cùng phối hợp là CHÚ trước và BÌNH sau. Phải chăng đây là gợi ý
cho sau này trong nhà trường phổ thông miền Bắc những năm 60 có một kiểu lên lớp không phải là “giảng văn” mà chỉ
là “bình chú”, một kiểu tìm hiểu tác phẩm thơ dành nhiều đất cho sự phóng
khoáng của người dạy.
Thứ tư, tác giả của Thi
nhân Việt Nam
đặc biệt dành những lời khen ngợi trân trọng
( hiếm khi gặp) cho nhà thơ Đoàn
Phú Tứ dù chỉ trích một bài. Trong những dòng nói về tác giả, hai nhà phê bình
đánh giá : “ Làm thơ rất ít. […] Nhưng
thơ hay không cần nhiều. Đoàn Phú Tứ chỉ làm có
dăm bảy bài mà hầu hết là những bài có đặc sắc. Ấy là một lối thơ rất
tinh tế và rất kín đáo. Thi nhân ghi lại bằng những nét mong manh những cảm
giác rất nhẹ nhàng”. ( sách đã dẫn tr. 98). Phải thẳng thắn mà nói rằng lời
bình của Hoài Thanh và Hoài Chân khá
bình thường, không có gì nổi bật và đặc sắc. Chỉ có tình thần khen ngợi
là nổi trội và rõ ràng ( dù cũng đã gài vào cả ý không khen) : “ Thành ra ý thơ, lời thơ, điệu thơ cùng với
hồn thi nhân đi từ hiện tại về quá khứ, từ quá khứ gần đến quá khứ xa, rồi dần
dần trở về hiện tại. Hiện tại chỉ mờ mờ nhạt nhạt, nhưng càng đi xa về quá khứ,
câu thơ càng thiết tha, càng rực rỡ. Nhất là từ chỗ ngũ ngôn chuyển sang thất
ngôn câu thơ đẹp vô cùng. Tôi tưởng dầu không hiểu ý nghĩa bài thơ người ta
cũng không thể không nhận thấy cái vẻ huy hoàng, trang trọng của câu thơ. Trong
thơ ta có lẽ không có bài nào khác tinh tế và kín đáo như thế”
(
sách đã dẫn, tr.101).
Thứ năm, sau này khi Đoàn Phú Tứ chủ trương cùng nhóm Xuân
Thu nhã tập, bài thơ lại được in lại, được phổ nhạc như một minh chứng
cho mong muốn cách tân thơ. Nhưng suy
cho cùng cuộc canh tân thơ ca của nhóm cũng chỉ mới là đưa ra lí thuyết. Bài
thơ có ý nghĩa như một minh họa cùng với những câu thơ của Nguyễn Xuân Sanh sau này được nhắc đến như một sự kì cục, bí
hiểm trong thể hiện “Đáy đĩa mùa đi nhịp hải
hà...” (*)
Gần đây,
chúng tôi thấy một loạt các bài viết về bài thơ “ Màu thời gian” này. Tinh thần là đề cao, coi
như là thành tựu của một mong muốn đổi mới thơ. Bài thơ xuất hiện cùng thơ mới,
nhưng đã vượt qua thơ mới để đi đến một lối thơ khác.[ Có thể đọc các bài
viết của Trần Thị Quỳnh Thuận : Văn chương
Đoàn Phú Tứ: một xác tín thẩm mỹ thời văn học mới; Chế Diễm Trâm : Tím ngát màu
thời gian; Nguyễn Thanh Tâm :"Màu
thời gian" - "Bông sáng tạo dâng lên bàn thờ đạo" (Một diễn giải
về thơ từ đặc trưng loại hình);…].
Dù có những bất thường như vậy, chúng tôi cho
rằng bài thơ này cũng bình thường thôi. Nếu không chú, không bỏ công đề cao như
Hoài Thanh đã làm thì vị tất người ta đã để ý và ca ngợi. Ngay cả Hoài Thanh,
ông cũng phải thừa nhận : “ Người xem thơ
cũng biết rằng đây là hình ảnh một đôi mẩu đời, nhưng hình ảnh mờ quá không thể
đoán những mẩu đời kia ra thế nào. Có
khi cả ý nghĩa bài thơ cũng không hiểu rõ” ( Sách đã dẫn, tr. 98). Bài thơ
có mấy câu không vần nhưng độc đáo, diễn tả thời gian, một thứ vô hình thành ra
cụ thể, có màu, có hương. Trong khi đó, nhưng thi liệu và từ ngữ dùng lại quá
cũ. Chẳng hạn : xuân tình, Tần phi, Tóc mây
một món chiếc dao vàng/ Ngàn trùng e lệ phụng quân vương/…Thà nép mày hoa thiếp
phụ chàng.
Tóm lại, dù có nhiều điểm bất thường, nhưng chúng ta nên trả lại sự bình thường cho bài
thơ này. Không nên đề quá cao bài thơ “
Màu thời gian”, dù cho nó được làm bởi một người sau này chủ trương cách tân
thơ của nhóm Xuân Thu nhã tập, dù
cho nó được nhà phê bình hết sức ca ngợi
và đánh gía bằng biệt nhãn. (* *)
Đôi
điều nói thêm
Trong quá trình tìm hiểu bài thơ “ Màu
thời gian”, chúng tôi xem trong VOV5 một
chương trình giới thiệu thơ Đoàn Phú Tứ và Trần Huyền Trân ( ngày 11/12/2012).
Sau khi trích đọc lời nhận xét của Hoài Thanh trong Thi nhân Việt Nam ,
nghệ sĩ Thanh Thủy ngâm bài thơ “Màu thời gian” theo thể lục bát như sau:
Cuộc
đời có hững hờ đâu
Trên
đầu tôi đã điểm màu thời gian
Thời gian xanh lại hoe vàng
Thời
gian xám đục ngỡ ngàng màu sương
Mỗi
lần tôi đứng trước gương
Nhìn
thời gian thấy bước đường đã qua
Tại
mình hay tại người ta
Tự
dưng tay nhổ gọi là tóc sâu
Sợi vương
sợi bạc sợi sầu
Từ
từ rơi xuống nỗi đau chia lìa
Thời
gian buồn tím tái tê
Chỉ
mình mình biết mình về mình thôi
Chúng
tôi không chắc đây có phải là Màu thời gian khác nữa của tác giả Đoàn Phú Tứ. Bài trong Thi
nhân Việt Nam có vẻ khó hiểu, “mờ mờ nhân ảnh” nặng những thi liệu cổ
thì bài này lại dễ dãi, diễn nôm. Nếu
quả đây là một bài khác của tác giả họ Đoàn thì cũng chẳng có gì thật đặc sắc.(***)
Hà Nội
12/9/2014
*)
Đoạn thơ thường hay được trích của
Nguyễn Xuân Sanh:
Quỳnh hoa chiều đọng nhạc trầm mi
Hồn xanh ngát chở dấu xiêm y
Rượu hát bầu vàng cung ướp hương
Ngón hường say tóc nhạc trầm mi
Lẵng xuân
Bờ giũ trái xuân sa
Đáy đĩa mùa đi nhịp hải hà...”
**)
Chúng tôi tuy không đề quá cao bài thơ xét về
chất lượng, nhưng đánh giá cao việc cố gắng của tác giả tìm chất thơ
trong “thời gian”. Đặc biệt là đã nói về màu và hương của thời gian. Trước đó, trong văn học dân gian Việt Nam ,
thời gian chỉ là vấn đề dài - ngắn, nhanh- chậm ( Đời người có một gang tay/ Ai hay ngủ ngày còn lại nửa gang. Hoặc Đêm tháng năm chưa nằm đã sáng/ Ngày tháng mười chưa cười đã tối).
Trong văn học trung đại, thời gian cũng được đo đếm theo tinh thần đó. Thời
gian như bóng câu qua cửa sổ. Thời gian như chớp mắt. Thời gian như giấc mộng
kê vàng. Với Nguyễn Du và một số nhà thơ khác thì còn có thời gian tâm lí : Ba thu dọn lại một ngày dài ghê. Ngày vui ngắn chẳng tày gang. Hoặc Nhất nhật tại tù thiên thu tại ngoại. Hầu như chưa có ai đặt vấn đề màu
và hương
thời gian. Điều này chắc chắn có thể sẽ
mở đường hoặc gợi ý để Văn Cao, Nguyễn
Duy, Nguyễn Thị Ánh Huỳnh,… viết về “Thời
gian” :
Rơi
như tiếng sỏi
trong lòng giếng cạn
Riêng những câu thơ
còn xanh
Riêng những bài hát
còn xanh
Và đôi mắt em
như hai giếng nước.
Thời
gian –
Văn Cao
Gió ù ù đi qua họng súng thần công
Tiếng chuông chùa đi thủng thỉnh trong
không
Áo em trắng đi từ xa vắng lại
Thời gian đi xám mặt đỉnh đồng
Đi ngang thành nội- Nguyễn
Duy
Không phải chim ảo
Con chim thời gian
Để lại những dấu chân thật thà
Gương mặt đàn bà
Nhầu nhĩ
Chim thời gian
Như đại bàng cắp nàng trái đất
Vừa bay vừa dẫm nát mặt người
Rạn gương mặt Tây Thi
Nứt gương mặt Dương Quý Phi
Con chim
Ăn sắc đẹp đàn bà…
Con chim thời gian – Nguyễn Thị
Ánh Huỳnh
***) Nhà phê bình viết “Đoàn Phú Tứ chỉ làm có dăm bảy bài mà hầu hết là những bài có đặc
sắc”. Chúng tôi xin dẫn ra hai bài
của Đoàn Phú Tứ để mọi người xem đặc sắc
đến mức nào.
Ánh Trăng
Mải miết đường
đời đã bấy lâu,
Biếng nhìn trăng cũ muốn quên sầu;
Đêm nay bỗng thấy bên song ngõ
Một ánh xanh mờ thoáng tự đâu,
Leo lét gợi khêu tình quá vãng,
Lòng thơ bao xiết nỗi thương đau;
Vung chăn toan rũ màn đen tối,
Mắt lệ đờ trong vành ngọc cao.
Biếng nhìn trăng cũ muốn quên sầu;
Đêm nay bỗng thấy bên song ngõ
Một ánh xanh mờ thoáng tự đâu,
Leo lét gợi khêu tình quá vãng,
Lòng thơ bao xiết nỗi thương đau;
Vung chăn toan rũ màn đen tối,
Mắt lệ đờ trong vành ngọc cao.
Tủi
``Vật mình tức
tối mộng không xong''
Nhắm mắt ôm vùi chiếc gối bông,
Bâng khuâng tìm giấc phấn hương nồng;
Phấn hương chưa ủ tình yêu lạnh,
Em chết ! Trời ơi ! Anh tủi lòng...
Nhắm mắt ôm vùi chiếc gối bông,
Bâng khuâng tìm giấc phấn hương nồng;
Phấn hương chưa ủ tình yêu lạnh,
Em chết ! Trời ơi ! Anh tủi lòng...
Bài viết trên tinh thần thẳng thắn và có phát hiện thú vị. Không ảo tưởng thần tượng. Xin chia sẻ cùng tác giả. ĐV
Trả lờiXóaCám ơn ĐV đã chia sẻ. Tôi không muốn nói theo, mà muốn độc lập nhìn nhận vấn đề. Quả tình, có thể vì cách xa về thế hệ nên tôi thấy câu thơ : " Ngàn trùng e lệ phụng quân vương" cứ như là câu hát tuồng vậy!
XóaĐúng vậy! câu ấy quá cũ như tuồng, cải lương. Nhưng hơn 30 năm sau, đến Tố Hữu mà còn viết: tay súng, tay cờ lại tấn công (TĐS nhận xét: như là kép tuồng cơ mà!) Nhận xét của tác giả rất chính xác. Bài MTG chỉ nhờ có HT mà nổi tiếng. Và độc đáo của HT là ở chỗ , vơi bai bình này,, là: bình = chú thích (bình chú). Nhưng bình chú thì có từ lâu đời trước HT nhiều chứ không phải HT là người phát kiến đầu tiên. mặt khác, theo tôi, cái hay của bài này, về ngôn ngữ: chính là những từ, câu cũ kỹ, cổ kính đó biểu hiện cảm xúc mới, tư duy mới (thời gian đổi màu, tỏa hương) nhưng không phải là bình cũ rượu mới mà mới hoàn toàn trong cảm thức của người đọc.Rồi nhịp điệu và nhạc điệu mới lạ. Bài thơ bắt nguồn từ 1 câu chuyện tình có thật của họ Đoàn. Ngoài bài này, ĐPT còn có bài nào hay nữa đâu? Ông toàn viết kịch và nổi tiếng trong giới văn nghệ với câu chuyện dự tiệc cươi Trần Dụ Châu. Mấy lời chia sẻ thêm vơi tác giả.
Trả lờiXóa