Thứ Bảy, 6 tháng 9, 2014

Người phụ nữ yêu làng, đa đoan trong thơ Ánh Tuyết


Người phụ nữ yêu làng, đa đoan trong thơ  Ánh Tuyết

                       Qua tập Còn đang đàn bà – tập thơ tình tuyển chọn, nhà xuất bản Hội nhà văn, 2007 và Bão tạt ngang, nhà xuất bản Văn Học, 2013
                                                                    
                                                                Vũ Nho

          Những người phụ nữ làm thơ, dấn thân vào sự nghiệp thơ ca thường  có chung một số phận đa tình, đa đoan và không mấy khi suôn sẻ trong cuộc sống tình cảm. Và chính điều bất bình thường ấy có lẽ là một nguyên cớ làm cho  thơ nói chung va thơ tình  nói riêng của họ dễ được đổng cảm, dễ được sẻ chia. Bởi vì không mấy ai khi bước vào khu vườn tình ái mà chỉ nếm toàn ngọt ngào, hạnh phúc. Nhà thơ Ánh Tuyết cũng là một trong các trường hợp đó.
          Chị là nhà thơ có gốc gác nhà quê, mặc dù làm đến chức Chủ tịch Công đoàn của một trường Cao đẳng lớn, Phó chủ tịch Hội văn nghệ của tỉnh Thái Bình  gần hai triệu dân. Có lẽ thế chăng mà những vần thơ viết về nông thôn, về các cô gái quê của chị  gây một ấn tượng đẹp. Và cũng khá rõ một điều là người phụ nữ gắn bó với văn học dân gian đã thẩm thấu những cách diễn đạt dân gian tinh tế của ca dao để làm nên vẻ đẹp của thơ hiện đại. Đây là  hình ảnh cô gái làng trong “ Tháng ba thương mến”:
          Em gái má ửng hồng làm cỏ lúa
          Ngực căng tròn, môi mọng như hoa
          ..
          Nước đầu nguồn trong veo như mắt em
          Lúng liếng…để anh say lừ đừ rồi đấy!
Một cô gái khác :
          Mắt sắc thế! Còn đong đưa đến thế…
          Áo nâu sát eo thon, khoe vồng ngực căng tròn
          Cửa thiền tròng trành…chóng mặt áo nâu non

                                      Hồn xuân
Lần đầu tiên quen biết Ánh Tuyết, tôi đã nghe chị liên tục đọc thơ của mình trên xe. Toàn những bài thơ về làng quê, về những cảnh quê, thức ăn quê, và quê đang thành phố thị. Trong số đó có bài “Bữa cơm ngày mùa” rất nông thôn, rất quê kiểng:
          Chiều ướp hương, buổi chiều cơm mới
          Bát mắm tép chưng, lát khế chua vàng
          Con chạch kho tương, con rô rán vội
          Ngồng cải luộc nhừ thơm một nét quê hương
          Chén rượu thuốc mời ông…con cua lột phần chồng
          Thằng cu út giành con tôm nướng đỏ
          Bát cơm đơm từ tay người vợ trẻ
          Rạng rỡ môi cười, rạng rỡ niềm vui
 Người phụ nữ sớm rời làng lên phố thị, nhưng vẫn có những quan sát rất tinh tế về làng quê:
          Người mẹ ru con giọng ngái ngủ khê nồng
          Em bé bú no còn hờn nũng mẹ
                             Đêm ở làng
Và có lẽ cái gốc quê ăn sâu đã làm cho chị có những nhận xét có phần thiên lệch chăng:
          Lá xôn xao lời tình tự của cây
           Đêm ở quê đàn bà yêu chồng…
                                              nồng nàn hơn người thành phố
                                                   Đêm ở làng
 Yêu quê, yêu làng như thế nên người thơ cảm thấy lo lắng, bất an trước cảnh mất ruộng và kèm theo đó là  mất bao nhiêu thứ :
 Làng giờ thành phố làng rồi
Đồng gần đã bán cho người dưới xa
..
Gái làng nhiều đứa đã ra thị thành
Chông chênh bến nước đầu đình
Có người mở nhạc xập xình ru con
                   Làng
Càng lo lắng và bất bình hơn vì cái tình làng nghĩa xóm tắt lửa tối đèn từ bao đời giờ bị xáo trộn bởi “văn hóa phong bì” tiền trao cháo múc :
                   Ở làng mọi chuyện khác rồi
                   Chuyện gì thì cũng phải… xơi phong bì
                             Thóc vàng
Đâu phải chỉ riêng ở làng. Nhà thơ lên tiếng báo động tình trạng xuống cấp của đạo đức xã hội, sự xuất hiện đông đúc của “những kẻ gian”, những “con sâu” đục khoét xã hội :
                   Chỗ nào cũng thấy kẻ gian
                   Nơi bần hàn chốn cao sang khác gì
                                      Thúy Kiều
Ấn tượng mạnh nhất có lẽ là ấn tượng về người đàn bà đang yêu, còn đang là đàn bà trong  thơ  Ánh Tuyết. Mặc dù có lúc hoài nghi, không tin chắc lắm:
Ngại ngùng…e ấp…điệu đàng
Hình như…ta vẫn còn đang đàn bà
          Còn đang đàn bà
Vì là đàn bà cho nên tâm hồn dễ đồng điệu cảm thông với thân phận của   người chị:
Ngày thì chậm tháng thì nhanh
Giấc mơ nuôi mãi chưa thành giấc mơ
                      Người đàn bà trong ngõ vắng
Cảm thông với hoàn cảnh của cô Tấm:
          Tin em…em cướp mất chồng
          Đành làm quả thị thơm cùng nước non
                             Lời của Tấm
 Nhân chuyện của Thị Màu mà nói về các chức sắc háo “ ngọt”:
           Cửa thiền nghiêm cẩn đấy ơi
          Bao nhiêu chức sắc cũng phơi mặt dày
                             Thị Màu
Là đàn bà, nên dễ cảm thông với những khát khao, kìm nén và bùng phát của một thân phận :
           Bao năm  giội nước… than hồng
           Chả khát khao…chả ước mong điều gì
          Bỗng dưng dứt áo ra đi
                             Chuyện một người đàn bà

Nhà thơ Đoàn Thị Lam Luyến  nói về tình yêu mãnh liệt rừng rực yêu thương:
           Em như vạt cháy rừng quanh năm đòi cứu hỏa
          Như ngọn lũ sông Hồng chỉ chực vỡ đê
                             Gọi Thúy Kiều
Thì Ánh Tuyết cũng khác gì . Có khác chăng là ở cách thể hiện:
          Lẽ nào chưa hết đàn bà
          Bồi hồi ngực áo…làn da phập phồng
          Dường như sâu thẳm cõi lòng
          Hòn than chỉ chực cháy bùng…hòn than
                                    Còn đang đàn bà
Đó là một viên “ than hồng” đang ngủ, đánh thức dậy sẽ thành đám cháy vô phương cứu chữa. ( Đánh thức than hồng). Đó có thể là “ Một dòng sông khát giữa vùng nước vây” có thể gây bão rung rừng ( Sông khát).  Đó là “ “mặt hồ đang sục sôi” khi Con sóng khát khao…cồn cào nỗi khát khao/ Con sóng yêu thương…tuyệt vọng nỗi dạt dào – những con sóng bị giam cầm dưới mặt hồ bị đánh thức trào lên ( Bắn súng vào mặt hồ). Đó là sự đợi chờ  mòn mỏi trong “Khắc khoải mùa đông”. Sự ao ước khó thành hiện thực “ Giá như có được một ngày/ Gặp người thuở trước cầm tay…một lần” ( Giá như). Có lúc người đàn bà ấy phân vân, hoài nghi:
          Tháng năm trôi mê mải
          Người xa còn nhớ nhau
                             Mùa ổi
Nhưng cũng có lúc mạnh mẽ, quyết liệt:
          Ai mua ta bán cái ngoan
          Còn bao nhiêu cái dịu dàng cho không
                             Cầm tù trái tim
Có lẽ không phải ngẫu nhiên mà người phụ nữ này hơn một lần nhắc đến chuyện bán cái ngoan, cho không cái dịu dàng, và quyết liệt hơn nữa “ cho không cái đoan trang”. Phải có một nỗi éo le, bức xúc ngấm ngầm không chịu nổi mới thốt ra thành lời:
           Thì đã cho không Cái dịu dàng
           Đã từng mang chợ bán Cái ngoan
          Còn điều này nữa ta cho nốt
          Cũng cho không đấy…Cái đoan trang
                                Bão tạt ngang
Nỗi buồn thân phận theo suốt cuộc đời nên thật cảm động khi có được niềm vui hiếm hoi bất ngờ. Cách diễn đạt so sánh đậm chất nhà quê thời thơ ấu :
          Bỗng dưng nhặt được… nụ cười trong veo
          Hân hoan như đứa trẻ nghèo
          Mót tìm được giữa đồng chiều…mẩu khoai
                             Nhặt được nụ cười
Niềm vui ít ỏi, hiếm hoi như thế nên khi được vui thì cứ vui hết mình :
          Đêm vui tay vít rượu cần
          Thì… cho trời đất…một lần ngả nghiêng
                             Đêm Tây Bắc
Cho trời đất, hay cũng chính là tự cho mình? Cách diễn đạt như thế là tinh tế mà người viết đã học được từ ca dao dân ca.
Có thể thấy Ánh Tuyết làm thơ khá nhanh, khá nhiều. Hình như chị chưa chú ý lắm đến việc tiết chế  cảm xúc. Có một số bài thơ vì thế “tầm tầm”.  Ở đó, ý tưởng không  thật mới, tình cảm chưa đủ độ mãnh liệt, lời thơ  chưa được “thôi xao” kĩ. 
Nhưng dù sao, “ Còn đang đàn bà”  và “Bão tạt ngang” cũng tạo nên một giọng thơ riêng của một phụ nữ yêu làng, đa đoan, đa cảm. Nó làm phong phú thêm thế giới thơ ca của những người phụ nữ. Những người đáng được tôn vinh trong lịch sử nói chung và lịch sử thơ ca nói riêng của đất nước.

                                                       Hà Nội, 06/6/2014
                                                                    26/8/2014


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét