Thứ Ba, 23 tháng 9, 2014

MẤY ĐIỀU BẤT THƯỜNG XUNG QUANH BÀI THƠ “MÀU THỜI GIAN” CỦA ĐOÀN PHÚ TỨ


MẤY ĐIỀU BẤT THƯỜNG XUNG QUANH BÀI THƠ “MÀU THỜI GIAN” CỦA ĐOÀN PHÚ TỨ

                                                  VŨ NHO
Tham luận trình bày tại Hội thảo Đoàn Phú Tứ do Hội nhà văn HN tổ chức 20/9/2014
         
Không phải vì tác giả là người viết kịch, có duy nhất một bài thơ được chọn vào sách “Thi nhân Việt Nam” của Hoài Thanh và Hoài Chân, mà bài thơ này có tính bất thường. Trong sách của Hoài Thanh và Hoài Chân có những tác giả sau chỉ có một bài : Thúc Tề, Đoàn Phú Tứ, Vân Đài, Phan Khắc Khoan, Thâm Tâm, Phan Thanh Phước, Hằng Phương, Mộng Huyền. Có hai tác giả được nói đến mà không trích bài nào trọn vẹn là T.T.KH, và Trần Huyền Trân. Vậy thì bài thơ của Đoàn Phú Tứ bất thường ở chỗ nào?
Trước hết, tuy Đoàn Phú Tứ chỉ được trích một bài thơ, nhưng trong phần tiểu luận “Một thời đại trong thi ca”, Hoài Thanh và Hoài Chân đã dành không ít dòng cho tác giả cùng với bài thơ. Ba lần nhắc đến Đoàn Phú Tứ và thơ của ông.
Tiếp  theo đó, Phong hóa luôn luôn đăng thơ mới của Tứ Ly, Thế Lữ, Nhất Linh, Nguyễn Văn Kiện, Vũ Đình Liên, Đoàn Phú Tứ, Huy Thông” ( Thi nhân Việt Nam, nxb Văn Học, Hà Nội 1988, tr. 16).
       “Cái kín đáo của thơ Pháp gần đây tôi còn thấy ở Đoàn Phú Tứ” ( Sách đã dẫn, tr. 27).
Nói tóm lại, phong trào thơ mới đã vứt đi nhiều khuôn phép xưa, song cũng nhiều khuôn phép nhân đó sẽ thêm bền vững. Hẳn tương lai còn dành nhiều vinh quang cho những khuôn phép này. Nó đã qua được một cơn sóng gió dữ dội trong khi các khuôn phép mới xuất hiện đều bị tiêu trầm như thơ tự do, thơ mười chữ, thơ mười hai chữ hay đương sắp sửa tiêu trầm như những cách gieo vần phỏng theo thơ Pháp” (2)

Những dòng dưới đây là chú thích cho chỗ đánh số 2:
Tiếng ta có bằng trắc rõ ràng. Nhiều khi chỉ đổi thanh cũng đủ không cần vần. Đọc mấy câu này của Đoàn Phú Tứ :
Duyên trăm năm đứt đoạn
Tình một thuở còn hương
Hương thời gian thanh thanh
Màu thời gian tím ngát
Có ai ngờ là những câu không vần. Còn như  trong mấy câu này của Xuân Diệu:
          Đây, dây thơ e ấp đã lâu rồi
          Chìm trong cỏ một vườn hoa bỏ vắng
          ( Lòng tôi đó một vườn hoa cháy nắng)
          Xin lòng người mở cửa ngó lòng tôi
Giá thay chữ “tôi” cuối câu thứ tư bằng một chữ gì khác không dấu đọc lên vẫn êm. Đại khái gieo vần phỏng theo thơ Pháp đều thừa như thế, mà lắm khi lại còn làm mất cả  âm điệu bài thơ”. ( Sách đã dẫn, tr. 41)
          Thứ hai, chỉ có bài thơ “Màu thời gian” của Đoàn Phú Tứ là có nhiều chú  đến như vậy. Toàn bài không tính nhan đề có 18 dòng thơ  chia  làm 5 khổ thì có 10 chú  giải chia cho  nhan đề 1, khổ thứ nhất 1; khổ thứ hai 2; khổ thứ ba 2; khổ thứ tư 3; khổ thứ năm 1. Mười chú giải này chiếm hơn một trang. Trong khi lời bình cũng chỉ dài non một trang mà thôi.
          Thứ ba, duy nhất trong cuốn Thi nhân Việt Nam, tác giả dành lời bình cho một bài thơ cụ thể. Còn lại tất cả chỉ là những nhận xét cho câu thơ, hình ảnh thơ hoặc bài thơ, giọng điệu thơ. Phần nhiều những nhận xét đặc sắc, tinh tế của người có tài thẩm bình khái quát.
          Cũng chỉ có bài “ Màu thời gian” mới có hai thao tác cùng phối hợp là CHÚ trước và BÌNH sau. Phải chăng đây là gợi ý cho sau này trong nhà trường phổ thông miền Bắc những năm 60 có một  kiểu lên lớp không phải là “giảng văn” mà chỉ là “bình chú”, một kiểu tìm hiểu tác phẩm thơ dành nhiều đất cho sự phóng khoáng của  người dạy.
          Thứ tư, tác giả của Thi nhân Việt Nam đặc biệt dành những lời khen ngợi trân trọng  ( hiếm khi gặp) cho  nhà thơ Đoàn Phú Tứ dù chỉ trích một bài. Trong những dòng nói về tác giả, hai nhà phê bình đánh giá : “ Làm thơ rất ít. […] Nhưng thơ hay không cần nhiều. Đoàn Phú Tứ chỉ làm có  dăm bảy bài mà hầu hết là những bài có đặc sắc. Ấy là một lối thơ rất tinh tế và rất kín đáo. Thi nhân ghi lại bằng những nét mong manh những cảm giác rất nhẹ nhàng”. ( sách đã dẫn tr. 98). Phải thẳng thắn mà nói rằng lời bình của Hoài Thanh và Hoài Chân khá  bình thường, không có gì nổi bật và đặc sắc. Chỉ có tình thần khen ngợi là nổi trội và rõ ràng ( dù cũng đã gài vào cả ý không khen) : “ Thành ra ý thơ, lời thơ, điệu thơ cùng với hồn thi nhân đi từ hiện tại về quá khứ, từ quá khứ gần đến quá khứ xa, rồi dần dần trở về hiện tại. Hiện tại chỉ mờ mờ nhạt nhạt, nhưng càng đi xa về quá khứ, câu thơ càng thiết tha, càng rực rỡ. Nhất là từ chỗ ngũ ngôn chuyển sang thất ngôn câu thơ đẹp vô cùng. Tôi tưởng dầu không hiểu ý nghĩa bài thơ người ta cũng không thể không nhận thấy cái vẻ huy hoàng, trang trọng của câu thơ. Trong thơ ta có lẽ không có bài nào khác tinh tế và kín đáo như thế
( sách đã dẫn, tr.101).
          Thứ năm, sau này khi Đoàn Phú Tứ chủ trương cùng nhóm Xuân Thu nhã tập, bài thơ lại được in lại, được phổ nhạc như một minh chứng cho mong muốn cách tân thơ.  Nhưng suy cho cùng cuộc canh tân thơ ca của nhóm cũng chỉ mới là đưa ra lí thuyết. Bài thơ có ý nghĩa như một minh họa cùng với những câu thơ của Nguyễn Xuân Sanh  sau này được nhắc đến như một sự kì cục, bí hiểm trong thể hiện “Đáy đĩa mùa đi nhịp hải hà...” (*)

          Gần đây, chúng tôi thấy một loạt các bài viết về bài thơ  “ Màu thời gian” này. Tinh thần là đề cao, coi như là thành tựu của một mong muốn đổi mới thơ. Bài thơ xuất hiện cùng thơ mới, nhưng đã vượt qua  thơ mới để đi  đến một lối thơ khác.[ Có thể đọc các bài viết của Trần Thị Quỳnh Thuận : Văn chương Đoàn Phú Tứ: một xác tín thẩm mỹ thời văn học mới; Chế Diễm Trâm : Tím ngát màu thời gian;  Nguyễn Thanh Tâm :"Màu thời gian" - "Bông sáng tạo dâng lên bàn thờ đạo" (Một diễn giải về thơ từ đặc trưng loại hình);…].


           Dù có những bất thường như vậy, chúng tôi cho rằng bài thơ này cũng bình thường thôi. Nếu không chú, không bỏ công đề cao như Hoài Thanh đã làm thì vị tất người ta đã để ý và ca ngợi. Ngay cả Hoài Thanh, ông cũng phải thừa nhận : “ Người xem thơ cũng biết rằng đây là hình ảnh một đôi mẩu đời, nhưng hình ảnh mờ quá không thể đoán  những mẩu đời kia ra thế nào. Có khi cả ý nghĩa bài thơ cũng không hiểu rõ” ( Sách đã dẫn, tr. 98). Bài thơ có mấy câu không vần nhưng độc đáo, diễn tả thời gian, một thứ vô hình thành ra cụ thể, có màu, có hương. Trong khi đó, nhưng thi liệu và từ ngữ dùng lại quá cũ. Chẳng hạn :  xuân tình, Tần phi, Tóc mây một món chiếc dao vàng/ Ngàn trùng e lệ phụng quân vương/…Thà nép mày hoa thiếp phụ chàng.
          Tóm lại, dù có nhiều điểm  bất thường, nhưng  chúng ta nên trả lại sự bình thường cho bài thơ này. Không nên đề quá cao bài thơ  “ Màu thời gian”, dù cho nó được làm bởi một người sau này chủ trương cách tân thơ của nhóm Xuân Thu nhã tập, dù cho nó được nhà phê bình hết sức  ca ngợi và đánh gía bằng biệt nhãn. (* *)
         
Đôi điều nói thêm
          Trong quá trình tìm hiểu bài thơ “ Màu thời gian”, chúng tôi xem trong VOV5  một chương trình giới thiệu thơ Đoàn Phú Tứ và Trần Huyền Trân ( ngày 11/12/2012). Sau khi trích đọc lời nhận xét của Hoài Thanh trong Thi nhân Việt Nam, nghệ sĩ Thanh Thủy ngâm bài thơ “Màu thời gian” theo thể lục bát như sau:
          Cuộc đời có hững hờ đâu
          Trên đầu tôi đã điểm màu thời gian
           Thời gian xanh lại hoe vàng
          Thời gian xám đục ngỡ ngàng màu sương
          Mỗi lần tôi đứng trước gương
          Nhìn thời gian thấy bước đường đã qua
          Tại mình hay tại người ta
          Tự dưng tay nhổ gọi là tóc sâu
          Sợi  vương  sợi bạc sợi sầu
          Từ từ rơi xuống nỗi đau chia lìa
          Thời gian buồn tím tái tê
          Chỉ mình mình biết mình về mình thôi
Chúng tôi không chắc đây có phải là Màu thời gian  khác nữa của tác giả Đoàn Phú Tứ. Bài trong Thi nhân Việt Nam có vẻ khó hiểu, “mờ mờ nhân ảnh” nặng những thi liệu cổ thì bài này lại dễ dãi, diễn nôm.  Nếu quả đây là một bài khác của tác giả họ Đoàn thì cũng chẳng có gì  thật đặc sắc.(***)

                                                         Hà Nội 12/9/2014


*) Đoạn thơ  thường hay được trích của Nguyễn Xuân Sanh:
Quỳnh hoa chiều đọng nhạc trầm mi
Hồn xanh ngát chở dấu xiêm y
Rượu hát bầu vàng cung ướp hương
Ngón hường say tóc nhạc trầm mi
Lẵng xuân
Bờ giũ trái xuân sa
Đáy đĩa mùa đi nhịp hải hà...”


**) Chúng tôi tuy không đề quá cao bài thơ xét về  chất lượng, nhưng đánh giá cao việc cố gắng của tác giả tìm chất thơ trong “thời gian”. Đặc biệt là đã nói về màu và hương của thời gian.  Trước đó, trong văn học dân gian Việt Nam, thời gian chỉ là vấn đề dài - ngắn, nhanh- chậm ( Đời người có một gang tay/ Ai hay ngủ ngày còn  lại nửa gang. Hoặc Đêm tháng năm chưa nằm đã sáng/ Ngày tháng mười chưa cười đã tối). Trong văn học trung đại, thời gian cũng được đo đếm theo tinh thần đó. Thời gian như bóng câu qua cửa sổ. Thời gian như chớp mắt. Thời gian như giấc mộng kê vàng. Với Nguyễn Du và một số nhà thơ khác thì còn có thời gian tâm lí : Ba thu dọn lại một ngày dài ghê. Ngày vui ngắn chẳng tày gang. Hoặc Nhất nhật tại tù thiên thu tại ngoại.  Hầu như chưa có ai đặt vấn đề màuhương thời gian. Điều này chắc chắn có  thể sẽ mở đường hoặc  gợi ý để Văn Cao, Nguyễn Duy, Nguyễn Thị Ánh Huỳnh,… viết  về “Thời gian” :

Rơi
           như tiếng sỏi
                                        trong lòng giếng cạn
            Riêng những câu thơ
                        còn xanh
            Riêng những bài hát
                       còn xanh
             Và đôi mắt em
                       như hai giếng nước.
                                 Thời gian – Văn Cao  

Gió ù ù đi qua họng súng thần công
Tiếng chuông chùa đi thủng thỉnh trong không
Áo em trắng đi từ xa vắng lại
Thời gian đi xám mặt đỉnh đồng
              Đi ngang thành nội- Nguyễn Duy

Không phải chim ảo
Con chim thời gian
Để lại những dấu chân thật thà
Gương mặt đàn bà
Nhầu nhĩ

Chim thời gian
Như đại bàng cắp nàng trái đất
Vừa bay vừa dẫm nát mặt người
Rạn gương mặt Tây Thi
Nứt gương mặt Dương Quý Phi
Con chim
Ăn sắc đẹp đàn bà…
           Con chim thời gian – Nguyễn Thị Ánh Huỳnh

***) Nhà phê bình viết “Đoàn Phú Tứ chỉ làm có  dăm bảy bài mà hầu hết là những bài có đặc sắc”. Chúng tôi xin dẫn ra hai bài của Đoàn Phú Tứ để mọi người xem đặc sắc  đến mức nào.

Ánh Trăng

Tác giả: Đoàn Phú Tứ
Mải miết đường đời đã bấy lâu,
Biếng nhìn trăng cũ muốn quên sầu;
Đêm nay bỗng thấy bên song ngõ
Một ánh xanh mờ thoáng tự đâu,
Leo lét gợi khêu tình quá vãng,
Lòng thơ bao xiết nỗi thương đau;
Vung chăn toan rũ màn đen tối,
Mắt lệ đờ trong vành ngọc cao.


Ti

Tác giả: Đoàn Phú Tứ
``Vật mình tức tối mộng không xong''

Nhắm mắt ôm vùi chiếc gối bông,
Bâng khuâng tìm giấc phấn hương nồng;
Phấn hương chưa ủ tình yêu lạnh,
Em chết ! Trời ơi ! Anh tủi lòng...





         
         
         


3 nhận xét:

  1. Bài viết trên tinh thần thẳng thắn và có phát hiện thú vị. Không ảo tưởng thần tượng. Xin chia sẻ cùng tác giả. ĐV

    Trả lờiXóa
    Trả lời
    1. Cám ơn ĐV đã chia sẻ. Tôi không muốn nói theo, mà muốn độc lập nhìn nhận vấn đề. Quả tình, có thể vì cách xa về thế hệ nên tôi thấy câu thơ : " Ngàn trùng e lệ phụng quân vương" cứ như là câu hát tuồng vậy!

      Xóa
  2. Đúng vậy! câu ấy quá cũ như tuồng, cải lương. Nhưng hơn 30 năm sau, đến Tố Hữu mà còn viết: tay súng, tay cờ lại tấn công (TĐS nhận xét: như là kép tuồng cơ mà!) Nhận xét của tác giả rất chính xác. Bài MTG chỉ nhờ có HT mà nổi tiếng. Và độc đáo của HT là ở chỗ , vơi bai bình này,, là: bình = chú thích (bình chú). Nhưng bình chú thì có từ lâu đời trước HT nhiều chứ không phải HT là người phát kiến đầu tiên. mặt khác, theo tôi, cái hay của bài này, về ngôn ngữ: chính là những từ, câu cũ kỹ, cổ kính đó biểu hiện cảm xúc mới, tư duy mới (thời gian đổi màu, tỏa hương) nhưng không phải là bình cũ rượu mới mà mới hoàn toàn trong cảm thức của người đọc.Rồi nhịp điệu và nhạc điệu mới lạ. Bài thơ bắt nguồn từ 1 câu chuyện tình có thật của họ Đoàn. Ngoài bài này, ĐPT còn có bài nào hay nữa đâu? Ông toàn viết kịch và nổi tiếng trong giới văn nghệ với câu chuyện dự tiệc cươi Trần Dụ Châu. Mấy lời chia sẻ thêm vơi tác giả.

    Trả lờiXóa