Thứ Tư, 28 tháng 5, 2014

Bản năng mẫu tử

             Hoàng Dân

Bản năng mẫu tử

                            Kính tặng linh hồn các liệt sĩ Trường Sa

                                       Hoàng Dân

1.
Tháng ba năm nào mẹ cũng ra Trường Sa. Thoắt cái đã hai mươi sáu năm. Ngày ấy con trai của mẹ tròn 20 tuổi, còn mẹ 49 tuổi. Giờ mẹ đã 75 tuổi. Thời gian phủ lên mái đầu của mẹ một lớp mây trắng bồng bềnh, nhưng dường như trái tim của mẹ thì vẫn vẹn nguyên như cái ngày cách đây hai mươi sáu năm, ngày mà con trai của mẹ đã ngã xuống trên một hòn đảo thuộc quần đảo Trường Sa... Khi ấy con trai của mẹ cùng với những đồng đội của nó đã quấn quốc kì quanh người, xiết chặt tay nhau, làm nên một bức tường thành chủ quyền bằng xương bằng thịt cho Tổ quốc… Còn kẻ thù thì vẫn lạnh lùng xả súng vào những người lính công binh, tay không có vũ khí, chỉ có cờ đỏ sao vàng và những lời ca tha thiết: “… Việt Nam, Hồ Chí Minh… Việt Nam, Hồ Chí Minh…”… Cờ Tổ quốc thêm một lần nhuộm đỏ máu tươi của hàng chục chàng trai ưu tú nước Việt, trong đó có con trai của mẹ…
Mẹ khóc. Khóc vì thương nhớ con. Vì ân hận xót xa. Chồng mẹ chẳng may bị bệnh hiểm nghèo mất sớm để lại cho mẹ hai mụn con, một gái, một trai… Lần ấy, mẹ vừa lãnh lương tháng, trên đường về, bất ngờ gặp bọn đạo chích, bị chúng cướp giật cái túi xách trong đó có toàn bộ số tiền tuy ít ỏi nhưng cũng đủ để ba mẹ con tằn tiện qua ngày… Mẹ thất thểu dắt chiếc xe đạp cà tàng về nhà trong tâm trạng hoang mang cực độ… Khi ấy, con trai mẹ mới mười hai tuổi, thấy mẹ về thì vẫn hồn nhiên như mọi khi, reo lên:
- A! Mẹ đã về…
Rồi vẫn hồn nhiên như thế, nó níu tay mẹ, rụt rè:
- Mẹ ơi, cho con năm hào để con mua tờ báo Thể thao, mẹ nhá…
Không hiểu sao, lúc ấy mẹ chỉ muốn trút tất cả nỗi uất hận vào một ai đó cho hả… Thì đây, kẻ đó chính là… con trai của mẹ… Rồi như ma xui quỉ khiến, bất ngờ mẹ hét lên, lạc cả giọng:
- Cút đii…iii… Sắp rã họng cả lũ ra đây… Báo với bóng gì… Hả trờ… iii….
Con trai mẹ mặt tái xanh, run cầm cập, lặng lẽ lủi dần trước cơn thịnh nộ chưa từng có của mẹ…
Nhưng cũng dường như ngay lập tức, mẹ nhào tới, vồ lấy con trai của mẹ, ghì chặt và oà khóc…
Con trai mẹ ngơ ngác nhìn mẹ. Rồi cũng khóc theo…

2.
Như bao người mẹ Việt Nam nhẫn nại cần cù khác, mẹ đã vượt qua muôn vàn khó khăn để nuôi nấng hai con nên người. Riêng với đứa con trai thì ngày nào mẹ cũng cho năm hào để nó mua tờ báo Thể thao… Rồi lớn lên, đi làm, nó không xin tiền của mẹ nữa, nhưng mẹ vẫn âm thầm bỏ vào con heo đất mỗi ngày năm hào… Để làm gì thì mẹ chưa biết. Nhưng mẹ cứ hành động như một thứ bản năng mẫu tử vậy thôi. Rồi con trai của mẹ nhập ngũ. Mẹ vừa mừng vừa lo. Mừng vì nó đã khôn lớn, trưởng thành. Lo vì trong sâu thẳm lòng mẹ, con trai của mẹ dường như vẫn bé bỏng như cái ngày nó rụt rè xin mẹ năm hào để mua báo; thế mà nay nó đang lênh đênh giữa trùng khơi sóng gió bất thường và đầy hiểm nguy… Nhiều lúc lòng dạ bồn chồn không yên, mẹ lại giở những bức thư của nó ra vuốt ve cho đỡ nhớ…
“… Mẹ ơi, chúng con là những chiến sĩ của Trung đoàn Công binh 83, đang lao động cật lực như những người thợ xây dựng nhiều công trình phòng thủ trên các đảo chìm, đảo nổi ở quần đảo Trường Sa… Công việc vất vả nhưng chúng con tự hào lắm, mẹ ạ… Chắc là mẹ không thể hình dung được mỗi khi nhìn thấy lá cờ đỏ sao vàng của Tổ quốc tung bay giữa nơi biển trời bao la này thì tâm trạng của chúng con như thế nào đâu?! Chưa bao giờ chúng con rưng rưng xúc động với bốn chữ Chủ quyền quốc gia như bây giờ… Chủ quyền là gì, mẹ có biết không? Là quyền làm chủ lãnh hải thiêng liêng của Tổ quốc đấy, mẹ ạ… Chỗ chúng con đang đứng chân là nơi mà những kẻ tham lam độc ác luôn ngày đêm dòm ngó và lăm le cưỡng chiếm… Những ngày này, hàng chục chiếc tàu chiến của chúng đang lượn lờ quanh nơi chúng con làm việc đấy… Nhưng chúng con không sợ…”…
3.
Có thể ngày 14 tháng 3 năm 1988 đối với nhiều người chỉ là một ngày bình thường như hàng vạn hàng triệu những ngày bình thường khác lặng lẽ mất hút trong dòng chảy vô thuỷ vô chung của thời gian vô hình vô tận, nhưng đối với mẹ, bằng linh giác của bản năng mẫu tử thì đó là một ngày vô cùng hệ trọng… Mẹ đột nhiên thức giấc và rơi vào một trạng thái nửa tỉnh nửa mê… Đầu óc mẹ mông lung chập chờn những hình ảnh thật hãi hùng… Những con tàu đang chìm… Những người lính Trường Sa, trong đó có con trai của mẹ đang gục ngã trước những làn đạn của bọn gây hấn … Họ ngã xuống mà nụ cười vẫn rạng ngời trên những gương mặt thanh xuân…
Rồi tin dữ bay về. Một số đảo ở Trường Sa bị hải quân Trung Quốc tấn công. Trong số những cán bộ, chiến sĩ của Hải quân nhân dân Việt Nam hi sinh, mất tích, có tên con trai của mẹ… Mẹ khuỵu xuống tưởng không sao gượng dậy… Nhưng rồi chính nụ cười ngời sáng một niềm tin sắt đá của những người lính Trường Sa đã giúp mẹ đứng thẳng trước mất mát đau thương…
Mẹ bước tới chỗ để con heo đất, thẫn thờ ôm con heo đất vào lòng và cứ để mặc cho nước mắt tuôn rơi… Bên tai mẹ vẫn văng vẳng tiếng cười lanh lảnh của con trai mẹ từ thuở nào xa lắm… Trước mắt mẹ vẫn thấp thoáng cái vẫy tay chào mẹ hôm nó lên đường ra Trường Sa… Sao lại là cái vẫy tay cuối cùng, con ơi… Mẹ ôm ngực nấc lên nghẹn ngào… Rồi mẹ đập con heo đất và kể từ ngày đó, mỗi ngày mẹ mua một tờ báo Thể thao… Mỗi ngày mẹ lại khẽ khàng đặt trước di ảnh con trai ở trên bàn thờ một tờ báo… Cứ thế, đều đặn ngày nối ngày, cho tới ngày 14 tháng 3 năm sau thì xấp báo trên bàn thờ đã cao sừng sững… Mẹ thắp hương, lầm rầm khấn khứa và sau đó đốt cả xấp báo gửi cho con trai của mẹ…
“Con trai yêu quí của mẹ ơi… Người ta bảo dương sao âm vậy con à… Ngày xưa, khi còn sống, mỗi ngày con đọc một tờ báo thì bây giờ con thác, mỗi năm mẹ sẽ gửi cho con tất cả các số báo của một năm, không thiếu một tờ nào đâu con ạ… Mẹ đã dặn chị con rồi, nếu mai ngày mẹ trăm tuổi thì chị con sẽ tiếp tục mua báo gửi cho con… Hu hu… Nhờ con mà mẹ được biết Trường Sa… Mẹ nghe nói ngày xưa, các đảo ở quần đảo Trường Sa chỉ toàn san hô và lưa thưa mấy khóm cây phong ba, mấy cây bàng vuông đơn lẻ; còn bây giờ thì đổi khác nhiều lắm rồi con ạ, những người đồng đội của con đã biến Trường Sa thành một mảnh đất trù phú với những con đường rợp bóng mát cây xanh… Nhưng vẫn còn đấy những cây bàng vuông xoè tán, những bông hoa phong ba bung nở trắng trời… Mẹ chỉ ngạc nhiên là sao ban ngày thì nước biển xanh biếc mà ban đêm nước biển lại có màu sẫm đen? Hay là có kẻ cố tình gây khó dễ cho việc tìm kiếm các con ở dưới lòng đại dương? Mẹ cứ tưởng giữa trời biển mênh mông thì lòng người cũng rộng, ai ngờ… Các con nằm ở vùng nước mà họ đã cưỡng chiếm… Ừ thì họ cứ ỷ tàu to súng lớn để vừa ăn cướp vừa la làng, nhưng sao họ lại nỡ ngăn cản cả cái việc phúc đức ấy, hả con?... Mẹ thương con quá, con trai yêu quí của mẹ ơi…”…
4.
Đến tháng 3 năm 2014, mẹ sang tuổi 75, sức đã yếu lắm rồi, nhưng mẹ vẫn quyết ra Trường Sa bằng được. Mẹ bảo: “Mẹ muốn được tự tay mình thả vòng hoa giữa đại dương mênh mông sóng vỗ, để được tận mắt ngắm nhìn vòng hoa dập dềnh ngạo nghễ trên những con nước cao ngất giữa trùng khơi… Con trai của mẹ ra đi mà chẳng để lại dấu vết gì thì chính mẹ phải đến tận vùng nước ấy, thả một vòng hoa để làm chứng rằng người đang sống không bao giờ quên người đã khuất…”. Và còn một điều thầm kín mà mẹ từng khắc khoải bao năm… Mẹ muốn biết tường tận rằng con và các bạn của con đã ngã xuống như thế nào vào cái ngày 14 tháng 3 nghiệt ngã ấy? Mẹ biết các con còn rất trẻ và nhiều vị chỉ huy của các con cũng rất trẻ. Nhưng ở nơi đầu sóng ngọn gió này, các con đã trở thành những con người gan góc và rất kiệm lời. Mẹ đã nhiều lần đánh bạo dò hỏi về sự thật của cái ngày giỗ chung cho mấy chục con người ấy, nhưng chưa ai trả lời rành rẽ cho mẹ cả! Còn lần này? Mẹ có linh cảm rằng lần này sẽ khác! Vì sao thì mẹ không biết, nhưng mẹ cứ tin, một niềm tin của bản năng mẫu tử! Thế là lựa lúc chỉ có mẹ và một vị chỉ huy trẻ tuổi, mẹ liền mạnh dạn bày tỏ nguyện vọng của mình: “Thưa ông, những năm trước tôi có hỏi cái ngày 14 tháng 3 năm 1988 nó đã xảy ra như thế nào thì các vị chỉ huy đều mỉm cười và tìm cách lảng tránh; còn năm nay, biết đâu đây chẳng là chuyến đi dối già của tôi, ông có thể chiếu cố được không ạ?!”. Vị chỉ huy trẻ tuổi giật mình sững sờ, rồi đứng lặng nhìn đám mây trắng bồng bềnh trên mái đầu của mẹ, hơi quay mặt đi, cố giấu những giọt nước mắt đang lăn dài trên má, gật đầu, nói khẽ: “Mẹ đi theo con”…
Vị chỉ huy trẻ tuổi dẫn mẹ vào một căn phòng khang trang, sạch sẽ và chỉ thấy toàn sách là sách. Lấy ra một cuốn sách dày, bìa cứng, vị chỉ huy trẻ tuổi lật tìm tới trang ghi chép về chiến dịch CQ.88 (Chủ quyền 1988) và nhẩn nha đọc cho mẹ nghe:
“Đầu tháng 3 năm 1988, Trung Quốc huy động lực lượng của hai hạm đội xuống khu vực quần đảo Trường Sa, gồm: một tàu khu trục tên lửa, bảy tàu hộ vệ tên lửa, hai tàu hộ vệ pháo, hai tàu đổ bộ, ba tàu vận tải hỗ trợ LSM, tàu đo đạc, tàu kéo và một pông tông1 lớn.
Dự đoán đối phương sẽ chiếm các đảo Gạc Ma, Cô Lin, Len Đao, Đô đốc Giáp Văn Cương chỉ đạo các tàu của Lữ đoàn vận tải 125 mang theo một số phân đội của Trung đoàn Công binh 83 và Lữ đoàn 146 nhanh chóng đến các đảo này.
Đêm 13 tháng 3, quân ta bí mật đổ bộ lên đảo Gạc Ma. Sáng 14 tháng 3, từ tàu HQ.604 đang thả neo tại Gạc Ma, trung tá Trần Đức Thông, Lữ đoàn phó Lữ đoàn 146 phát hiện bốn tàu lớn của Trung Quốc đang tiến lại gần.
Hải quân Trung Quốc thả ba thuyền nhôm và bốn mươi quân đổ bộ lên đảo. Lực lượng áp đảo nhưng không cướp được cờ. Quân địch bắn pháo 100 mm từ hai chiến hạm vào tàu 604, khiến tàu bị thủng nhiều lỗ và chìm xuống biển. Lữ đoàn phó Trần Đức Thông, đại uý thuyền trưởng Vũ Phi Trừ và nhiều sĩ quan, chiến sĩ ta đã hi sinh cùng tàu 604.
Tàu HQ.505 tới đảo Cô Lin lúc 5 giờ. Khi thấy tàu 604 bị bắn chìm, thuyền trưởng tàu 505 Vũ Huy Lễ ra lệnh nhổ neo, tăng tốc cho tàu ủi bãi2 trong làn pháo địch. Con tàu Anh hùng này đã kịp trườn được hai phần ba thân lên đảo trước khi bị tàu địch bắn cháy. Mặc dù thua kém đối phương về lực lượng, phương tiện, vũ khí, nhưng trong trận chiến đấu ngày 14 tháng 3 năm 1988, những người lính Hải quân Việt Nam đã chiến đấu quên mình để bảo vệ chủ quyền Tổ quốc. Chúng ta mất ba tàu, sáu mươi tư sĩ quan và chiến sĩ hi sinh hoặc mất tích, mười một người bị thương, nhưng đã bảo vệ được chủ quyền tại các đảo Cô Lin và Len Đao. Trung Quốc chỉ chiếm được đảo Gạc Ma”…
5.
Vị chỉ huy trẻ tuổi đã ngừng đọc… Còn mẹ thì vẫn ngồi lặng phắc, đôi mắt đăm đăm dõi ra khơi xa… Gió từ biển lớn vẫn ào ào như tiếng vọng của những cuộc hành binh từ thuở xa xưa cha ông dựng nước… Sóng từ đại dương vẫn cuồn cuộn ngân nga như bản hùng ca thấm đầy máu và nước mắt… Thời gian như ngưng đọng trong những giọt lệ hiếm hoi đung đưa nơi khoé mắt của mẹ… Bất giác, mẹ thều thào hỏi:
- Từ ngày xửa ngày xưa, đây vẫn là biển đảo của ta, sao họ lại ngang ngược như vậy?
Vị chỉ huy trẻ tuổi không nói gì, lẳng lặng trải ra trên mặt bàn một tấm bản đồ khổ lớn, chỉ tay vào cái hình vẽ kì dị, nhỏ nhẹ:
- Mẹ ơi, người ta tự vẽ như thế này đây…
Mẹ nhướng đôi mắt già nua, chăm chú nhìn vào cái hình vẽ ngoằn ngoèo oằn oại, cười mà như mếu:
- Sao nó từa tựa như… cái lưỡi bò vậy?
Vị chỉ huy trẻ tuổi gật đầu:
- Đúng, người ta gọi nó là cái bản đồ hình lưỡi bò, mẹ ạ…
Mẹ im lặng, nhíu mày như cố nhớ ra một điều gì đó đã lặn rất sâu trong kí ức mù mờ của mình, rồi gượng cười:
- Thế thì tôi hiểu rồi… Tôi hiểu rồi… Ngày xưa, khi còn nhỏ, tôi đi chăn bò cho hợp tác xã, mẹ tôi thường dặn: “Con bò này hỗn lắm… Sểnh ra là nó táp lúa… Chẳng ai rỗi hơi mà tranh cãi hơn thua với con bò, họ cứ đè cổ người chăn dắt ra mà phạt điểm đấy… Con nhớ phải luôn để mắt đến nó…”. Quả nhiên như vậy, con bò này rất háu đói, nó thường đứng trên bờ giương đôi mắt thèm thuồng nhìn những khóm lúa xanh mơn mởn ở dưới ruộng… Nó thèm đến nỗi rớt dãi cứ chảy ròng ròng nom thật tội nghiệp. Nhưng nó sợ… Thế cho nên, thỉnh thoảng nó lại lấm lét lia cái lưỡi tham lam ra thật dài để táp vội vài khóm lúa… Là kẻ ăn vụng ăn trộm nhưng nó vẫn trơ tráo ngẩng đầu lên nhai ngấu nhai nghiến một cách ngon lành… Đôi khi nó còn phởn chí rống lên ò ò… Nhưng nó sợ, không dám thò chân xuống ruộng đâu, vì nếu thò chân xuống thì nó sẽ bị sa lầy ngay lập tức… Vì thân xác nó thì cồng kềnh, mà bùn đất thì đặc quánh như hồ… Khổ thế…

                                                                 Thạch Bàn
                                                                     3.2014

1. Pông tông: một loại bè lớn chuyên dụng
2. Ủi bãi: khi gặp tình huống khẩn cấp, phải cho tàu mở hết tốc lực lao thẳng lên cạn ở một điểm bất kì trên đảo để khẳng định chủ quyền và quyết giữ chủ quyền bằng mọi giá để chờ đồng đội ra hỗ trợ.




             






Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét