Đường Văn
THI THOẠI, ĐẦU HẠ,
BÊN BỜ NHUỆ
GIANG
(Tản văn –
Hồi ức)
ĐƯỜNG VĂN
-
Đố anh nhớ
được bài thơ, đoạn thơ hoặc câu thơ đầu tiên đã gây ấn tượng đầu đời với mình…
cho đến tận bây giờ đấy?
Sau bữa phở điểm
tâm, sáng đầu hè nhễ nhại mồ hôi, Lê có vẻ phởn chí, lại khơi ngòi bàn phiếm về
thơ, vốn là những câu chuyện yêu
thích liên miên, không bao giờ dứt của hai đứa tôi, mỗi khi ngồi với nhau.
Tôi cười:
-
Hãy cứ pha café
đi đã! vừa nhấm nháp vừa chuyện cũng không muộn!
-
Có ngay! có ngay
đây!
Lê vừa nói
vừa mau mắn, tong tả mở tủ lạnh. Anh bạn tôi vốn hiếu khách và tính rất cẩn
thận, dù chỉ là một việc rất nhỏ.
-
Anh quên hai tách sáng qua ta chưa dùng; vì
anh bảo vừa uống xong ở nhà ông thông gia, tôi phải cho vào tủ lạnh đó sao?!
-
Ờ nhỉ! thời tiết
này mà uống càfe đá là quá hợp rồi! Này, nó có thể khởi hứng cho 1 bài tứ tuyệt
vịnh cà fê – phở được đấy!
-
Chịu! tôi chưa
thấy hứng đâu, chỉ thấy nóng quá! Anh làm trước đi!
-
Để xem! Để xem!...
Nhưng trở lại câu hỏi đầu tiên của anh. Đó là 1 vấn đề thú vị, ẩn chứa một thi thoại đích thực! Mỗi người yêu thơ
đều có con đường đến với thơ riêng của mình. Tới tuổi ngấp nghé thất thập này
mà cùng ôn, nhớ lại để cùng cười xòa cho cái thú vui đeo đẳng suốt đời mà chẳng
đi đến đâu,… có lẽ cũng vui và hay đấy! Hay chí ít cũng làm tiêu, quên được
phần nào cái nóng oi sớm sủa của những buổi sáng như sáng nay…
Tợp 1 ngụm nhỏ café đen đặc sánh, mát
lạnh, nghe tiếng lanh canh của đá cục va vào lòng cốc sứ, nhìn mông ra phía bờ
sông Nhuệ đã bắt đầu bốc lên làn hơi trăng trắng mờ mờ, chẳng biết sương hay
khói, hay mắt già hoa cà hoa cải, tôi trầm ngâm nhớ lại:
-
Không hiểu sao
lại thế, và thật khó có thể cắt nghĩa rành rẽ nguyên do, đoạn thơ đầu tiên ám
ảnh tôi suốt gần 60 năm qua là 1 đoạn thơ rất xoàng, của một tác giả nào đó, tôi cũng không để ý, trong sách Tập đọc lớp 3. Tôi còn nhớ như in những
câu sau:
CHÚ ĐI
TUẦN
(?)
… Trong đêm
khuya vắng vẻ,
Chú đi tuần
đêm nay.
Nép mình dưới
bóng hàng cây
Gió đông lạnh
buốt đôi tay chú rồi!...
… Chú đi qua
cổng trường,
Các cháu miền
Nam yêu mến,
Nhìn ánh điện,
qua khe phòng lưu luyến,
-
Các cháu ơi!
Các cháu ngủ
có ngon không?
Cửa kính che
kín gió,
Ấm áp dưới
mền bông.
Các cháu cứ
yên tâm ngủ nhé!
Trong đêm
khuya vắng vẻ,
Chú đi tuần
đêm nay!
Hải Phòng yên
giấc ngủ say...
Anh có biết
và nhớ bài thơ ấy của ai không?
-
Chịu! Tôi thấy
đoạn thơ cũng chỉ ở mức xêm xêm như thơ của đa số các vị ở CLB xã – phường ta thôi! xét về nghệ thuật thể
hiện. Nghĩa là đơn giản về ý, tứ, lời cũng mộc mạc, đơn nghĩa. Được cái vần vèo
trơn tru. Còn tất nhiên, nội dung tư tưởng tình cảm thì chuẩn quá, nhân văn,
nhân ái quá rồi! Có lẽ chính vì yếu tố này mà nó được tuyển vào SGK cho trẻ
học. Nhưng một bài thơ trung bình, không có gì đặc sắc, đặc biệt như vậy, tại
sao lại đủ sức neo giữ vào tâm hồn anh dai dẳng đến thế?
-
Đã bảo tôi không
hiểu nổi bộ nhớ kỳ quặc của tôi nữa mà!...
-
?!
-
Đúng như anh nói!
Nhưng không hiểu sao cứ mỗi lần nhớ về những bài thơ, đoạn thơ đầu tiên hồi học
tiểu học thì đoạn thơ Chú đi tuần ấy
lại hiện ra trong óc, rõ mồn một. Trước và sau đó còn một hai đoạn nữa, đại
loại giọng, vần và nội dung… cũng thế. Mỗi lần đọc đoạn thơ (thầm hoặc thành
tiếng), trong tôi lại lập tức hình dung cảnh một anh công an (hay bộ đội), mũ
lưới đính sao vàng, tiểu liên trong tay hoặc súng ngắn bên hông, đang lặng lẽ,
nhẹ nhàng đi tuần tra an ninh dưới những lùm cây dọc đường phố Hải Phòng, canh
giấc ngủ bình yên cho đồng bào, trong đó có các em thiếu nhi – học sinh miền
Nam vừa tập kết ra miền Bắc theo cha mẹ, vào học tập trung ở ngôi trường đặc
biệt đó.
-
Bài thơ là lời
tâm tình, thể hiện tình cảm, tâm trạng của anh công an đó với các em. Có lẽ anh
cũng là một chiến sỹ miền Nam tập kết nên bên cái tình còn cộng thêm màu sắc
đồng hương cùng ở xa quê rất lưu luyến, gắn bó nữa…
Rất nhiều
năm sau, khi bản thân cũng bắt đầu tập tọng làm thơ, nhớ lại bài Chú đi tuần, tôi mới dần dần tự vỡ ra
đôi điều nhập môn về công việc đặc thù này. Tôi nghĩ rằng một trong những lý do
tạo nên sức ám ảnh của bài thơ ấy, đoạn thơ ấy, chính là ở cái hoàn cảnh thật, tình cảm thật và tâm trạng
thật. Thật sự xúc động, chân thành, của người viết đã tạo sức lây lan,
truyền cảm sang người đọc. Và đúng như các cụ xưa từng dạy thật chí lý: Với
thơ: số 1: phải là tình. Sau đó mới
đến cảnh. Và sự thì đứng sau cùng. Bài này cũng vậy. Cảnh chẳng có gì đặc biệt. Sự
việc và nhân vật cũng hết sức đơn giản. Vậy cái còn lại và nổi lên đầu
tiên, hấp dẫn người đọc chính là tâm tình
của anh chiến sỹ công an với trẻ thơ trong đêm đi làm nhiệm vụ. Một tâm tình,
tình người giản dị, chân mộc, hiền lành,
tự nhiên bật lên thành tiếng thơ, lời thơ cũng giản dị, chân mộc như thế.
-
Nhưng, này Đường
Văn! anh đừng nên quá say sưa, tô vẽ cho quá khứ phủ bụi vàng! Tôi phải nhắc
anh một điều cũng giản dị không kém: Không phải bất cứ tình cảm chân thành,
giản dị nào cũng có thể dệt thành thơ hay được đâu! Thơ hay còn cần bao nhiêu
yếu tố phức tạp khác nữa chứ!
-
Đúng vậy! Lạ lắm
anh ạ! Lạ cho cái đầu óc và tâm hồn hay bung biêng của tôi ấy. Bài Chú đi tuần, riêng tôi tự xếp vào loại
thơ hay, đáng nhớ (vì sự thật đã được nhớ rất lâu),… đã đành! Nhưng, đến những
câu thơ bàng bạc mà… nhớ mãi (?!) này thì tôi cũng lấy làm lạ cho mình!?
-
?
-
Đây:
SÁNG NAY TA PHÁ BỜ
(Minh Huệ, tác giả Đêm nay Bác
không ngủ)
…
Sáng nay ta phá bờ,
Phá
đi thời đại cũ;
Đón
thời đại vũ trụ,
Bay
tên lửa Liên Xô!
Ta
bỗng nhìn lưỡi cuốc:
Một
ánh lửa lóe lên…
Và đây nữa,
nhưng câu ca dao mới (hình như?!) của
cụ Trần Hữu Thung:
Đầu cha con
nghẹn tay thằng Pháp,
Vai mẹ con
nặng ách thằng vua.
Quanh năm
thắt bụng cày bừa,
Quanh năm
nhặt bát cơm thừa, quanh năm!
-
Úi giời! - Lê vỗ
đùi, cắt ngang dòng hồi ức của tôi. – Mấy câu “trứ danh” ấy thì tôi cũng nhớ. Đó chỉ là những câu thơ thời sự
phục vụ chính trị trực tiếp một cách thô vụng, hời hợt. Thế mà sao nhiều người
thuộc thế?! Lại còn đầu nghẹn trong tay nữa chứ! Ngay cả cái lý nghệ thuật rộng rãi trong thơ cũng
không chấp nhận cách viết phi lý đến thế!
-
Tôi cho rằng đó
là sức mạnh của thời đại. Chính cái không khí náo nức phơi phới của nông thôn miền Bắc nước ta cuối những năm năm mươi,
đầu những năm sáu mươi, cái không khí say
người, như sống trong mơ (chữ dùng của Hoài Thanh khi ông bình thơ Tố Hữu: Gió lộng) của người nông dân Việt Nam vừa
được hưởng hòa bình, giải phóng, tự do, có ruộng cấy, trâu cày, nô nức, tin
tưởng hoàn toàn ở Đảng, Nhà nước và Bác Hồ trên con đường làm ăn tập thể với
ước mơ ấm no, hạnh phúc, có thể xây dựng thiên
đường trên mặt đất, trong một tương lai không xa…!
-
Từ tổ đổi công tiến lên hợp tác,
Đời ta vươn
lên như tre vượt mắt,
Xuyên qua
từng lớp gai dầy
(Yến Lan)
đặc biệt là:
Dân có ruộng,
dập dìu hợp tác,
Lúa mượt đồng,
ấm áp làng quê.
Chiêm, mùa,
cờ đỏ ven đê,
Sớm, trưa,
tiếng trống đi về trong thôn.
(Tố Hữu - Ba mươi năm đời ta có Đảng).
Miền Bắc: thiên
đường của các con tôi!
(Bài ca xuân 61)
Có thể nói những hình ảnh ngọn cờ đỏ, tiếng trống, đoàn xã viên hợp tác hằng ngày đi làm dập dìu qua đê, sang bãi, xuống đồng cùng
với tiếng cuốc phá bờ phầm phập, hăm hở dồn điền, đổi thửa, quyết tâm đưa nông
nghiệp miền Bắc tiến lên sản xuất lớn XHCN từng nhiều năm vang động trong thơ
ca Việt Nam, dư sức tác động rất mạnh, rất sâu vào tâm trí ngây thơ, trong
trắng và non nớt của lứa thiếu niên, nhi đồng chúng tôi khi ấy!
-
Lại nói đến sự
tác động thần kỳ (tôi mạnh dạn dùng
từ này mà không sợ quá cường điệu!) một thời của thơ Tố Hữu. Tôi cho rằng, ở Việt Nam, nửa sau thế kỷ 20, nhất là khoảng
những năm 60 – 70, thơ Tố Hữu xứng đáng, rất xứng đáng được vinh danh là ngọn cờ đầu của thơ ca cách mạng Việt
Nam. Thơ ông có sức lan truyền rộng nhất, xa nhất, thấm sâu nhất những tư tưởng
lớn, tình cảm lớn – yêu nước, cộng đồng, dân tộc và thời đại, trong sự tiếp
nhận nồng nhiệt của đại đa số bạn đọc Việt Nam từ già tới trẻ, đủ các tầng lớp.
Người Việt Nam đọc thơ ông, ngâm thơ ông một cách sảng khoái, hào hứng, hào
hùng, khâm phục nhiệt thành như nói cùng, nhớ lại, vọng vang tiếng nói của cha
ông, cuả đất nước, lịch sử với niềm tin vào lý tưởng và tương lai…Không một nhà
thơ chuyên nghiệp nào ở Việt Nam đương thời, trước cũng như sau đó thành công
được như ông. Tôi nghĩ bộ Lịch sử văn học Việt Nam thế kỷ 20 nhất định
phải định vị và ghi công Tố Hữu đúng
như những gì thơ ông đã làm được, đã đóng góp cho nhân dân, đất nước, cách mạng
và Đảng trong một giai đoạn cách mạng, một chặng đường lịch sử Việt Nam hiện
đại.
…Nhưng cũng
đã từ lâu, tôi, và không chỉ riêng tôi, không còn thích thơ Tố Hữu, sùng bái
thơ ông như xưa! Song, quả thực những câu thơ, bài thơ Tố Hữu đầu tiên tôi đã được
tiếp xúc thì hình như vẫn giữ nguyên cái cảm xúc bồi hồi, hứng thú một cách hồn
nhiên, không hề thay đổi.
Chẳng
hạn đoạn điệp khúc baì thơ Lượm mà
tôi được học ngay từ lớp 1. Hình ảnh tươi vui, nhảy nhót, rất sống động, ngân
nga…Mãi 5 năm sau (lớp 5: lớp 6 ngày nay), mới được học toàn bài. Mới biết
thêm:
Cháu
cười híp mí/ má đỏ bồ quân và Ở đồn Mang Cá/Thích hơn ở nhà…
Hình ảnh
Lượm hy sinh vừa hiện thực vừa lãng mạn cách mạng:
Cháu nằm trên lúa/Tay nắm chặt bông/Lúa
thơm mùi sữa/Hồn bay giữa đồng!
Những
câu thơ xót xa, bùi ngùi, vời vợi nhớ thương của Tố Hữu nhập vai anh vệ quốc quân xa nhà, nhớ bầm, nhớ mẹ,
vang lên dịu dàng, da diết trong một buổi
sáng mưa phùn đầu xuân, chúng tôi chăn bò bên bờ sông Nhuệ:
Mưa phùn ướt
áo tứ thân,
Mưa bao nhiêu
hạt, thương bầm bấy nhiêu!
Trong
màn mưa xuân giăng giăng trắng trời, trắng nước phía Cầu Sông Trèm, tôi cứ
mường tượng bà bầm, bà bủ Phú Thọ ấy cũng như mẹ tôi đang oằn vai gánh phân qua
cầu, bấm bàn chân trần xuống đường bùn trơn nhẫy. Thương biết bao nhiêu những
bà mẹ Việt Nam thời nào và ở đâu cũng nhẫn nại hy sinh, vất vả, gian lao, gánh
nặng cả đời. Cho đến nay, tôi vẫn nghĩ: Bầm
ơi! là một trong những bài thơ Việt Nam hay nhất, sâu nhất, lắng đọng nhất,
xúc động nhất viết về Mẹ. Ai có thể sánh được với Tố Hữu - trong đời thơ của
mình - đã từng mấy lần dựng được những bức tượng đài khác nhau về người Mẹ Việt
Nam? Bà má Hậu Giang, Bầm ơi! Bà mẹ Việt
Bắc, Mẹ Tơm, Mẹ Suốt… Tại sao
chúng ta lại có thể nhanh quên lịch sử và sự thật như vậy?
-
Kỷ niệm về thơ Tố
Hữu thì tôi cũng có nhiều. Ta có thể dành riêng 1 buổi đẫy để đàm đạo chuyên đề
này. Giờ ta trở lại chủ đề ban đầu. Những bài thơ đến với anh thưở ấu niên còn
có gì đáng nói, đáng nhớ nữa?
-
Có chứ! Chẳng hạn
2 bài: Đáng sống bao nhiêu một ngày vì
cách mạng! của Lưu Trùng Dương (Văn tuyển lớp 7) và Lên miền Tây của Bùi Minh Quốc.
-
Tôi cũng thích
hai bài đó nhưng không nhớ được mấy. Anh nhớ được nhiều không? Và cảm xúc hồi
ấy cũng như bây giờ của anh về hai bài đó có thay đổi nhiều lắm không?
-
Mãi về sau tôi
mới biết cụ Lưu Trùng Dương (1930) là em cụ nhà thơ – nhà viết kịch bản chèo Lưu
Quang Thuận, chú nhà thơ – nhà viết kịch tài hoa yểu mệnh Lưu Quang Vũ. Hình
như bây giờ cụ Dương vẫn sống đâu như ở Đà Nẵng?! (- Cần tra cứu lại google về chi tiết này! Lê bỗng chen
ngang). Cụ viết nhiều, nhưng tôi chỉ nhớ mỗi bài Đáng sống…ấy với đoạn sau:
Những chiến
sỹ chon von,
Trên chòi
canh biên giới.
Chân đạp mây
bay, tóc vờn gió núi,
Ngày mù sương
tơ tưởng một bến đò,
Đêm sáng
trăng khao khát những vần thơ…
Nhưng anh lên
đây, ấm rừng, vui bản,
Đèo suối nâng
niu, bàn chân vạn dặm.
Gọi tên thổ
phỉ trở lại làm chồng.
Giữa hòa
bình, anh hiến máu trẻ trung,
Ghì đất nước
trong vòng tay không mỏi…
Những
hình ảnh ấy có lẽ là sản phẩm của thuần
tưởng tượng lãng mạn bay bổng,
lại có vẻ sân khấu tuồng nữa; mà sao vẫn hấp dẫn, mê hoặc
tuổi thiếu niên chúng tôi đến thế?!:
Chân đạp mây bay, tóc vờn gió núi,
Ngày mù sương,
tơ tưởng một bến đò,
Đêm sáng
trăng, khao khát những vần thơ…
Có
cảm giác như tác giả đã cùng đứng gác với anh chiến sỹ biên thùy (CANDVT), cùng
chia sẻ tâm sự, tâm tình thầm kín với anh. Cái nhan đề bài thơ, rõ ràng rất chi
là lên gân, hô khẩu hiệu chính trị. Trong bài, trong đoạn trích cũng chen vào
không ít những câu thơ khẩu hiệu như thế… Vậy mà sao giờ đây đọc lại, vẫn thấy
cảm xúc ngây thơ, trong sáng và đáng yêu đến thế?!
- Hẳn vì hồi
ấy tâm hồn mình cũng trong trắng, ngây thơ như thế nên dễ đồng điệu?!
- Còn
Lên miền Tây – bài thơ dài mang dáng
dấp trường ca hào hùng, đầy khí thế, từng làm nức lòng cả giới thanh - thiếu
niên Hà Nội cuối những năm 50 đầu 60. Bài thơ hay và có tính tư tưởng, tính giáo dục đến mức được chọn đưa vào
sách Phụ lục Văn tuyển lớp 7 (cấp 2
phổ thông) năm 1961 – 1962). Và đến kỳ thi tốt nghiệp cấp 2 năm 1962 – 1963, đã
được Ban Đề thi Sở Giáo dục Hà Nội trích 2 câu nổi tiếng, soạn thành đầu đề bình giảng cho thí sinh:
Cái tuổi hai
mươi khi hướng đời đã thấy,
Thì xa xôi
biết mấy cũng lên đường!
Chú bé học sinh ngoại thành làng Trèm 13
– 14 tuổi, học trường Đông Ngạc (Đức Thắng) mới bập vào tình yêu văn, yêu thơ như tôi đã viết như bị ma đuổi, mê
man, háo hức bình giảng những cái hay, cái đẹp, cái cao cả, lý tưởng cách mạng
được gợi ra từ hai câu thơ bốc lửa, kỳ diệu trên. Tôi hầu như quên rằng mình
đang phải làm bài thi tốt nghiệp mà cứ viết, viết với tất cả niềm say mê, hứng
khởi bồng bột cũng đang rất muốn lên đường, rời khỏi Thủ đô Hà Nội để đi xây
dựng Tổ quốc XHCN, để xứng đáng là những đội viên, đoàn viên Thanh niên Lao
động Việt Nam.
Tôi không
mất nhiều thời gian để học thuộc lòng bài thơ khá dài nhưng cũng khá vần (theo
thể thơ tự do) ấy. Đến giờ, tôi vẫn
có thể đọc thuộc trơn tru nhiều đoạn dài. Tôi nghĩ một trong những sức cuốn hút
của bài thơ là ở giọng điệu và nhịp điệu
rất lôi cuốn, liền mạch, khi ào ạt, cuốn bốc như sóng trào, khi nhẹ nhàng, chậm
rãi như sóng ru. Sau này, càng khâm phục sức tưởng tượng và sự hóa thân vào
hình tượng nghệ thuật của Bùi Minh Quốc hơn, khi viết Lên miền Tây, tác giả mới 18 – 19 tuổi, đang là học sinh lớp 9 (11)
Chu Văn An; và chưa bao giờ ra khỏi Hà Nội! Tất nhiên, nhiều năm sau, khi đã là
giáo viên dạy Văn, tôi có dịp đọc lại, ngẫm nghĩ kỹ thêm về bài thơ Lên miền Tây một cách khách quan, sâu
sắc hơn. Nhận ra không ít nhược điểm, vụng về, non nớt, ngây thơ về cả tư tưởng
– nghệ thuật của nó. Sự dài dòng, thừa thãi, dẫn đến trùng lặp của lời thơ và
hình ảnh; những từ ngữ, hình ảnh sáo rỗng, đại ngôn: (Nghe gió rừng, tưởng khúc “Tiến quân ca”/ nghe âm vang cuồn cuộn thác sông Đà/ Tưởng giục giã tiếng kèn ta
xung trận/ Đi chiến đấu là niềm vui bất tận/là mặt trời sưởi ấm vạn đời xuân/chí
ta cao chót vót Hoàng Liên Sơn, sức ta đi vùn vụt cướp thời gian…/viết tiếp những
trang thần thoại mới; cộm lên những chi tiết thiếu hiểu biết về kiến thức
cơ bản của khoa học địa lý, lịch sử và luyện kim: Dựng lò đúc thép ở Điện Biên… chẳng hạn…!). Tuy nhiên, dù còn những
nhược điểm, hạn chế ấy, bài thơ vẫn làm trọn xuất sắc nhiệm vụ chính trị – thời
sự cuả nó một cách vẻ vang; vẫn có thể coi là một trong những hiện tượng thơ thời ấy.
Và
với riêng tôi, Lên miền Tây, đến hôm nay, vẫn sôi sục, giục giã
tôi bằng hình ảnh, nhịp điệu, bằng tư tưởng, tình cảm, mỗi khi nhớ lại cái tuổi
hoa niên 13 – 14 áo trắng trong và tâm
hồn như ngọc của mình. Theo tôi, sau này, Bùi Minh Quốc – Dương Hương Ly còn 2 bài thơ đáng phục, hiếm hoi
nữa: Bài thơ về hạnh phúc và Đất quê ta mênh mông. Mỗi bài hay, sâu, thấm một cách, một kiểu. Nhưng về độ
bốc lửa, hừng hực và trong trắng toàn tâm, toàn ý, nhất khí quán hạ thì Lên miền
Tây vẫn… đứng đầu. Tôi nghĩ, phải chăng đó là bộ ba chân kiềng vô cùng vững chắc tạo nên gương mặt thơ, thương hiệu
thơ của họ Bùi nửa cuối thế kỷ 20. Chứ không phải là những bài thơ trữ tình
- chính trị nhức nhối, cay đắng, trần truị mà sâu thẳm nhưng cũng
rất cực đoan, gai ngạnh, đầy tính phản biện và phản bác những quan điểm và phát
ngôn chính thống, chính quy, mậu dịch
(Nguyễn Hoàng Đức) về tình hình thực trạng xã hội và thơ ca của ông cựu tổng
biên tập tạp chí Langbiang những năm
gần đây và hiện nay!
-
Nãy giờ toàn gợi
kỷ niệm đầu đời về thơ nội, thơ Việt.
Còn thơ ngoại, thơ dịch thì sao? với Đường Văn? Tôi đoán
lại không ngoài các cụ: Lý, Đỗ, Puskin… chứ gì?
-
Anh lầm! Với tôi,
nhà thơ nước ngoài đầu tiên làm cho tôi sửng sốt vì sự lạ lùng, mãnh liệt trong
tư tưởng, cảm hứng và nghệ thuật hình tượng ngôn từ thể hiện, chính là V.V. Maiacôpxki (1893 – 1930), người
Grudia (Liên Xô cũ).
Tôi vừa
thích vừa sợ khi lần đầu được thầy giáo dạy Văn lớp 9 (11) THPT cho xem tấm ảnh
chân dung cụ Maia. Mũi cao, môi dầy, nét, tóc cứng dựng. Đặc biệt là đôi mắt
to, sắc nhọn, đang gườm gườm phóng ra
những tia bắn trời bằng bê tông cốt thép!
Tôi đã rất thành kính và cảm mến treo tấm chân dung ác liệt này trước bàn học
của tôi suốt mấy năm liền.
Về thơ cụ
Maia, bài đầu tiên lập tức cuốn hút tôi, khiến tôi say mê không cưỡng nổi chính
là đoạn trích trường ca: Lê nin (1924),
cụ viết khi Lê nin vừa qua đời (cũng là năm ông thân sinh tôi ra đời), qua bản
dịch từ tiếng Hoa của nhà thơ Hoàng Trung Thông. (Trong sách Văn tuyển lớp 10.) Về sau, có điều kiện
học tập và nghiên cứu tiếng Nga, văn học Nga tại nước Nga, tôi được đọc thơ Maia
bằng tiếng Nga và có thử đối chiếu ít nhiều với các bản dịch tiếng Việt của Xuân Diệu, Hoàng Xuân Nhị (qua bản dịch
tiếng Pháp), Hoàng ngọc Hiến (trực
tiếp dịch từ tiếng Nga), thấy bản dịch của Trạng
Thông họ Hoàng vẫn thú vị và chuyển được rất nhiều hồn thơ Nga qua tiếng
Việt. Có đến chết, tôi vẫn không sao quên được (không cần học, đọc 1 lần là
thuộc ngay!?) những câu thơ bậc thang
hùng vĩ, với những cách cắt nhịp, xếp từ, xuống dòng hết sức độc đáo này:
Hôm qua,
lúc
sáu giờ năm mươi phút,
Đồng chí Lê
nin
Từ trần!
Năm nay,
chỉ thấy
một lần
Điều bất hạnh,
ngàn lần
không thấy
nữa!…
Kinh hoàng
sắt thép
cũng rên la!
Sóng
nức nở
tràn
qua
những tấm lòng
cộng sản…
…Chúng ta
sẵn sàng
chết!
Cho Lê nin
được sống!
Cả thành phố
sẽ như
Cái kè
mở rộng.
Cả triệu
người
tình nguyện
lao vào.
Miệng vẫn
ca vang…
Thật là
tuyệt diệu một cách kinh khủng, dữ dội. Càng đọc Maia, càng ngưỡng mộ, khâm
phục thiên tài thi ca mang tầm nhân loại của ông, càng cảm thương cho cuộc đời
vinh quang và cay đắng, số phận
nghiệt ngã và cái chết tức tưởi của
người nghệ sỹ vĩ đại khi tự cảm thấy cuộc
sống và sáng tạo chẳng còn gì mới
hơn!
-
Thế còn cảm nhận
của anh về thể thơ bậc thang hồi ấy
và bây giờ?
-
Tất nhiên hồi ấy,
say như điếu đổ. Lạ quá! Hay quá! Và có vẻ dễ bắt chước nữa mới là điều thích
thú nhất. Ít lâu sau được đọc trích đoạn
trường ca Đây! Việt Bắc! (Đi! Đây! Việt Bắc!) của Trần
Dần (trên 1 số tạp chí Văn nghệ quân đội
mất bìa, cũ mèm!) mới thấy cụ Tư Mã Gãy
này cũng mê và học kiểu thơ bậc thang
của cụ Maia thật tài tình, viết được những câu thơ bậc thang bằng tiếng Việt thật tạo hình, man mác:
-
Đây!
Việt Bắc!
Sông Lô
Nước xanh,
tròng trành
mảnh
nguyệt.
Bình Ca,
sương xuống,
lạc
con đò…
Nhưng trong
bài ấy lại có cả một đoạn thơ dài mà đầu các câu đều bắt đầu bằng điệp từ ở đây,
ở đây… thì cụ Trần đã vô tình hay hữu ý bắt chước (học tập) cụ Maia (trong trường ca Lê nin), tuy lộ liễu và vụng
về quá!
Tố Hữu cũng
học Maia về kiểu thơ bậc thang này
trong 2 câu cuối bài thơ Với Lê nin
(1958) mà chắc ông còn nhớ?
-
Và chiều nay,
trước lúc
vội đi xa,
Người còn
nghe:
thánh thót,
Crup xcaia
Đọc trang
sách:
“Tình yêu và cuộc sống!”...
đúng không? Còn Tiếng chổi tre (1960), thực chất cũng là thơ bậc thang nhưng xếp theo kiểu thơ cột.
-
Ở Việt Nam mình, những
môn đệ tự nguyện kiểu thơ bậc thang này,
ngoài Trần Dần ra, còn phải kể tới Lê Đạt, Hữu Loan, Chính Hữu, Việt Phương…Trong
đó Hữu Loan, Chính Hữu thành công hơn cả. Nhưng đến cuối thế kỉ 20, sang thế kỷ
21 này thì thơ bậc thang cũng đã trở thành cũ lắm rồi! Nó cũng chỉ là 1
trong nhiều lối thơ, thể thơ hiện đại – cổ điển mà thôi. Nó có mặt mạnh và
mặt yếu của mình. Nhìn chung, thơ bậc thang ít
thích hợp với đặc thù ngôn ngữ tiếng Việt. Bây giờ, thi thoảng gặp cảm hứng phù
hợp, tôi vẫn học cụ Maia, và các cụ tiền bối Việt mà tập tọng làm thơ bậc thang. Hồn
Trèm (2013) là một ví dụ loàng
xoàng của thơ bậc thang Đường Văn, mà anh biết đấy!
-
Tôi thì cho rằng thơ bậc thang chủ yếu là sự sắp xếp từ, câu và hình thức trình bày trên giấy để hướng dẫn người đọc ngắt nhịp thơ cho đúng, và gây ấn
tượng thị giác mà thôi! Ngay chính ở Maia, thơ bậc thang cũng chỉ chiếm một
phần trong sự nghiệp thi ca đồ sộ của ông. Trần Dần cũng chỉ làm thơ bậc
thang trong giai đoạn đầu mà thôi!
Theo tôi, hiện tượng bẻ, ngắt thơ lục bát và xếp thành 2, 3, 4 bậc trong
thơ Việt hiện đại cũng là một biến thái
từ lối cách tân đã xa xôi này!
-
Chỉ có Hữu Loan
là chung thủy với thể thơ bậc thang
ấy. Từ Đèo cả, Hoa lúa đến những bài
thơ cuối đời…hình như cụ chỉ độc diễn
một lối leo thang! Nhưng cứ đọc mãi một kiểu thơ, ngắm mãi một lối trình bày
thơ, cũng thấy đơn điệu, nhàm chán. Và cái hay, tự nhiên cũng giảm đi… vài ba bốn
phần!...
-
…
***
-
Từ nãy đến giờ,
tôi đã nói khá nhiều về kỷ niệm thơ của mình. Còn anh khôn quá, toàn gợi, hỏi.
Bây giờ ta chuyển vị trí chứ? Ông bạn!
-
Thôi, có lẽ để
hôm khác! Thiếu gì thời gian! Chuyện thơ sáng nay đã hơi bị dầm dề rồi đấy! Bây
giờ, có nhẽ ta chuyển sang thưởng thức món nước vối tươi mới hãm với ngô nếp
luộc bà Xuân nhà tôi mới mua ở chợ Trèm, xem sao!
-
Ờ, phải!
Tôi mau mắn
đồng tình và chúng tôi chuyển đề tài sang câu chuyện nước vối với khoai lang,
ngô luộc, với sự tham gia của bà xã anh Lê./.
Sáng - chiều nắng, oi
24 – 27- 5 – 2014.
ĐV
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét