Hoàng Dân
CHÙM THƠ BIỂN ĐÔNG của HOÀNG DÂN
CHÙM THƠ BIỂN ĐÔNG của HOÀNG DÂN
Nghĩ về con “quái vật” Hải Dương
981
Giữa đại dương bao la một màu xanh bình yên
Bỗng lù lù một dàn khoan như con quái vật
Sặc mùi bá quyền
Cắm vào giữa lòng tự tôn dân tộc
Chúng mang tới cả trăm loại tàu lớn nhỏ
Phô trương cả những nòng đại bác đen ngòm
Và không ngớt tuôn ra những giọng điệu la làng
Của phường ăn cướp
Luật biển của loài người văn minh
Luật pháp của một láng giềng hữu nghị
Tiếng nói của những người có lương tri
Với chúng? Chỉ là tờ giấy lộn...
Chúng ta phải làm gì
Trước một gã khổng lồ hung bạo
Nếu không chịu sống quì
Thì chỉ còn một cách... chấp nhận hiểm nguy!
Những con tàu chấp pháp Việt Nam
Ít hơn nhiều lần và nhỏ hơn về vóc dáng
Vẫn hiên ngang trên vùng biển chủ quyền
Lướt sóng dọc ngang ngoan cường kì lạ
Giữa đại dương bao la một màu xanh bình yên
Con quái vật như một gã côn đồ ngông ngạo
Tay cầm dao và miệng la hét điên cuồng
Ngàn năm Tổ quốc đau thương
Cái giá cho lòng tự tôn chưa bao giờ là rẻ!
Thạch Bàn
22.5.2014
Nguyên vẹn Hoàng Sa
1
Kính tặng
Đại tá phi công, AHLLVTND và các đồng đội của anh
“Đáng lẽ tụi mình chết cho Hoàng Sa thì vinh dự hơn!” 2
Đó là nỗi dằn vặt trong tâm hồn của những con dân nước Việt
Bốn mươi năm trời biền biệt
Gặp nhau trong những khoảng lặng thật buồn
Một mảnh đất dù nhỏ cũng là giang sơn
Của cha ông đã dựng xây bằng máu xương bao thế hệ
Phải giữ gìn và bảo vệ!
Có lời thề nào thiêng liêng hơn thế?
Lệnh đến giờ G!
Một trăm hai mươi máy bay xuất kích
Cùng những phi công tình nguyện kí tên
“Xin được chết vì Hoàng Sa”! 3
Nhưng đau đớn thay!
Cái giờ G đó đã không bao giờ đến nữa
Bởi những kẻ đi đêm toan tính thấp hèn
Biển ơi, người có mặn chát thêm?
Bốn mươi năm trời đằng đẵng
Những chàng trai luôn nhớ tiếc một thời
Nếu ta được vút lên bầu trời ngày ấy
Thì Hoàng Sa vẫn nguyên vẹn đến bây giờ...
Thạch Bàn
28.4.2013
1. Xem bài: Phỏng
vấn Đại tá phi công, AHLLVTND Nguyễn Thành Trung của Trung Dũng và Minh
Nguyễn, đăng trên Sài Gòn tiếp thị media,
26.4.2013
và bài: Hải
chiến Hoàng Sa – 40 năm nhìn lại – Kỳ 6: Không quân Việt Nam Cộng Hoà lên kế
hoạch giành lại Hoàng Sa của Đỗ Hùng và Tấn Tú, Thanh Niên online, 10.1.2014.
Tóm tắt nội dung trả lời phỏng vấn của đại tá
Nguyễn Thành Trung: sau ngày 19.1.1974, không lực VNCH đã tập trung 5 phi đoàn
máy bay chiến đấu (mỗi phi đoàn 24 chiếc) tại sân bay Đà Nẵng để chuẩn bị cho
một trận tập kích bằng đường không tái chiếm Hoàng Sa, nhưng do có sự thoả
thuận ngầm giữa Mĩ và Trung Quốc, nên Mĩ cảnh báo không được hành động.
2. Lời các đồng đội của đại tá Nguyễn Thành Trung
nói với nhau mỗi khi hội ngộ.
3. Khẩu hiệu hành động của các phi công chiến đấu
thuộc không lực VNCH.
Những màu đỏ
Kính tặng tàu cá QNg
96382 TS 1 (Lý Sơn, Quảng Ngãi)
cùng thuyền trưởng Bùi Văn Phải và thuyền viên Phạm
Quang Thạnh
Chiếc tàu cá mỏng
manh
Can
trường đè sóng dữ
Nghìn
đời nay vẫn thở
Bằng
hào khí cha ông
Đất Nam thì vua Nam ở
2
Biển
Nam thì dân Nam đánh cá
Cớ
sao có kẻ manh tâm
Giở
thói côn đồ, hải tặc?
Chiếc
tàu cá mỏng manh
Chở
theo những ngư dân quả cảm
Tay
không đối mặt bao họng súng kẻ thù
Giữ
lá cờ bằng máu đỏ trong tim
Lá cờ đỏ ngời lên
trong lửa đỏ
Ngạo
nghễ, thiêng liêng cột mốc chủ quyền
Bên
những chàng trai thô ráp lành hiền
Giương
cao lá cờ như một đức tin
Chiếc
tàu cá mỏng manh
Treo
cờ đỏ ra khơi
Lá
cờ đỏ tươi màu máu
Mặc
cho lửa ác đỏ trời...
Thạch Bàn
29.3.2013
1. Ngày 20.3.2013, chiếc tàu cá này bị tàu Trung Quốc bắn cháy rụi ca bin
và bắn gãy cột cờ; ngay lập tức thuyền trưởng Bùi Văn Phải đã dựng lại cột cờ
và lá cờ Tổ quốc lại tiếp tục tung bay.
2. Lấy ý của câu thơ “Nam quốc sơn hà Nam đế cư” trong bài thơ “Thần”
tương truyền của Lý Thường Kiệt.
Nếu không có biển
Nếu không có biển
thì không có cuộc chia tay huyền thoại
của 50 người con
lên rừng và 50 người con xuống biển
người lên rừng thì
toả xuống đồng bằng trồng lúa, làm nhà
dựng đình, chùa và
đặt ra lễ nghi, phong tục
người xuống biển
thì đóng thuyền đánh cá ra khơi
lập đền thờ Cá Ông
thấm đẫm hồn thiêng lễ hội
trăm người con cứ
nhẫn nại sinh sôi
trên dải đất có
dáng hình cong cong như hàng mi không chớp
nghìn năm qua vẫn
đau đáu dõi biển Đông
những giọt lệ ngóng
chồng, đợi cha
đuổi theo những con
tàu ngoài khơi xa biền biệt
vì mưu sinh và cũng
vì phên giậu cõi bờ
Nếu không có biển
thì cũng khó biết ta là ai
giữa trùng khơi
luôn thất thường bão tố
những hiểm nguy
rình rập đêm ngày
biển cho đôi bàn
tay những lớp chai dày
những thớ thịt trụi
trần rám nắng
những ánh mắt khát
khao cháy bỏng
những bền gan đè
sóng ra đi
không đầu hàng sau
mỗi cuộc chia li
dẫu nhiều lần trắng
tay vẫn không rời bể
những chiến binh
cảm tử với ngư trường
Nếu không có biển
thì đất nước sẽ nghèo đi biết bao
khi thiếu những tên
người, tên đảo từ thời vua Lê, chúa Nguyễn
một đảo Lý Sơn với
những ngôi mộ gió
những lễ khao lề
gọi vong lính Hoàng Sa
một đảo chìm Gạc Ma
với vòng tròn bất tử
máu loang đại dương
đau đớn vỗ vào bờ
một Côn Sơn với anh
linh người liệt nữ1
khiến kẻ thù cũng
phải thành tâm làm bia mộ dâng hương
một biển Đông mênh
mông vẫn sừng sững một con đường
với những cái tên
Phan Vinh2 , Văn Hiệu3...
Nếu không có biển
thì tâm hồn ta sẽ nghèo đi biết bao
khi thiếu những câu
thơ mặn mòi sóng gió:
Chỉ có thuyền mới hiểu
Biển mênh mông nhường
nào
Chỉ có biển mới biết
Thuyền đi đâu về đâu4…
…
Nếu không có biển thì chỉ còn
sa mạc mênh mông
không có những buồn vui kiếp
người thăng trầm cùng sóng vỗ
những giọt nước mắt
dù chân thành
khổ đau và thương nhớ
cũng nhạt đi
và lạnh lẽo,
vô hồn...
3.2011-3.2013
1. Viên thiếu tá nguỵ
Tăng Tư, chúa đảo Côn Sơn (1966-1968) đã đặt làm một tấm bia bằng đá cẩm thạch
rất đẹp ở Chợ Lớn, đưa ra Côn Sơn, long trọng làm lễ đặt bia, dâng hương tại
ngôi mộ của Anh hùng Liệt sĩ Võ Thị Sáu.
2,3. Nguyễn Phan
Vinh, Nguyễn Văn Hiệu là những người anh hùng đã hi sinh cùng những con tàu chở
vũ khí vào chiến trường miền Nam thời kì chống Mĩ, trên con đường huyền thoại
“Đường Hồ Chí Minh trên biển”.
4. Trích trong bài
thơ “Thuyền và biển” của Xuân Quỳnh.
Lịch sử
Con cái không có quyền lựa chọn mẹ cha
dù giàu sang hay bần hàn
dù khôn ngoan hay tăm tối
thì vẫn là những đấng sinh thành tuyệt đối
không thể bán mua
không thể chối bỏ
Dân tộc không có quyền lựa chọn cõi bờ
dù ở non cao hay trong thẳm sâu rừng rú
dù bốn bề sa mạc cằn khô
hay bên bờ đại dương nghìn đời sóng dữ
đó vẫn là quê hương xứ sở
là Tổ quốc muôn đời của triệu triệu sinh dân
Ta gọi đó là lịch sử
Để nuôi ta khôn lớn nên người
mẹ ta tần tảo một đời khốn khó
không ít lần gian nan đứt bữa
đau thắt lòng nghe ta khóc đòi ăn
và những ngày điêu linh binh lửa
mẹ chở che ta run rẩy tấm thân gầy
tất cả những điều đó ta không nhìn thấy
nhưng đó là lịch sử làm người
Để có ngày hôm nay ta nhìn lên bản đồ
lặng ngắm cõi bờ có dáng hình tia chớp*
đối mặt đại dương bao la xanh thẳm khôn cùng
lòng bỗng rưng rưng nhớ những tiền nhân anh hùng
suốt nghìn năm đã bỏ mình vì nước
nắm xương tàn phơi trắng gò hoang
và cảm thương hàng triệu vành khăn tang
thắt trên đầu những nàng vọng phu như định mệnh
tất cả những điều đó ta không nhìn thấy
nhưng đó là lịch sử làm nên phẩm giá con người
Mẹ cha và cõi bờ
ta không có quyền lựa chọn
và càng không có quyền chối bỏ
bởi đó là lịch sử
muôn đời
Thạch Bàn
8.4.2013
* Mượn
ý của nhà thơ Trần Mạnh Hảo
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét