Chấm vào thương nhớ…
Đọc Sương Hồ Tây Mây Tháp Bút
của Nguyễn Vũ Tiềm
Nhà xuất bản Hội Nhà Văn, 2011
Vũ Nho
Trong
bài thơ về danh họa Bùi Xuân Phái, Nguyễn Vũ Tiềm viết:
Có
chàng hiệp sĩ vung cây cọ
Chấm
vào thương nhớ mờ xa
Chạy
nước rút cuối chặng đường thế kỉ
Níu
giữ buồn vui thần thái phố xưa
Bùi Xuân Phái
Khi
đọc hết tập thơ Sương Hồ Tây Mây Tháp Bút,
không hiểu sao, tôi cứ hình dung Nguyễn Vũ Tiềm cũng hệt như chàng hiệp sĩ kia,
chỉ có khác là nhà thơ không vung cây cọ
mà lặng lẽ trước bản phím để Níu giữ buồn
vui thần thái phố xưa. Tập thơ 45
bài này hầu như chỉ tập trung cảm xúc về một vùng quê hương là
Thăng Long- Hà Nội. Hà Nội xưa và nay. Hà Nội thực và mơ. Hà Nội phổ cổ và Hà Nội ngoại thành. Hà Nội
trong nỗi nhớ. Hà Nội trong niềm mong.
Hà Nội… Áo trắng Thăng Long, Tháp Bút Đài
Nghiên, Trên cầu Thê Húc, Đô Thị Linh Đàm, Ngõ Quan Thổ, Công viên Thống nhất
ngày và đêm. Hà Nội trong Một góc bếp
Hà thành, Tiệc cưới đường Thanh Niên
và Hà Nội Trên mặt thành hai nghìn tuổi.
Hà Nội Trước thềm giêng hai và Hà Nội mùa thu may áo thơ…
Nhà thơ vốn quê ở ngoại thành Hà Nội, sau
1975 sống và viết ở thành phố Hồ Chí Minh đã dành riêng tập thơ này cho thành
phố quê hương. Có thể thấy cảm xúc mạnh mẽ của anh, người con của Hà Nội trong
đám cưới tưởng tượng ở đường Thanh Niên:
Vâng,
tôi biết!
Nhưng
lòng không cưỡng được
Trước
dịu dàng thanh tú dáng mây bay
Trước
ngan ngát một miền thương mến quá
Tiệc
cưới đường Thanh Niên
Hà
Nội thương mến ngời lên trong mỗi bước đi, trong mỗi gặp gỡ, tiếp xúc. Dù là
bên Tháp Bút Đài Nghiên, hay Trên
Cầu Thê Húc. Dù là một nét Ghi ở Bưu
điện Bờ Hồ hay nhẩn nha Thơ tranh gốm
sứ bờ đê. Mỗi miền quê trong kí ức của thi nhân đều là miền thương nhớ, tự
hào. Nhất là
quê ấy lại là Thăng Long – Hà Nội. Ta sẽ
bắt gặp nỗi nhớ những đặc sản :
Nhớ cháo cái se, giò nem Chèm ,Vẽ
Qua Gạ, Sù thăm xôi lúa, bánh trôi...
Trước thềm giêng hai
Những cảm xúc ngợi ca cũng
thường xuyên gặp. Vẻ đẹp của cô gái vô danh trên cầu Thê Húc:
Mắt của em là cửa sổ
để tôi nhìn vào lương thiện
Một cái đẹp cao hơn cái đẹp
Một xa xôi khao khát mơ hồ...
Trên cầu Thê Húc
Nét độc đáo của bánh tôm Hồ
Tây:
Lá rau, ngọn húng, nụ
cười
Sao trời lạc xuống ngời ngời hoa khôi
Mời anh hai cái nửa vời
Một đầy say tỉnh, một vơi dại khờ...
Bánh tôm và sao Hồ Tây
Nét đẹp văn hóa của người viết
chữ và xin chữ ở Văn Miếu:
Người viết: nhập thần
từng nét chữ
Người chờ: nhận lộc của nghìn năm
Người viết thư pháp ở Văn Miếu
Và đây, phiên chợ quê thời
kinh tế thị trường mở cửa:
Chợ Ninh Hiệp hôm nay
Vải vóc lụa là nhiều hơn ngô lúa
Trang phục bốn mùa nhiều hơn sắn khoai
Xe máy nhiều hơn gà lợn
Ô tô nhiều hơn trâu bò
...
Đồng quanh làng như hoa ôm nhụy
Phố giữa làng như ngọc trong trai
Một vùng quê ngoại thành
Tuy nhiên, dù tha thiết yêu
quê hương, yêu Hà Nội, nhưng không chỉ có những niềm vui, những hưng phấn ca
ngợi. Nhà thơ không khỏi có những chạnh lòng, những trăn trở, băn khoăn:
Ánh đèn pha xắn đêm
ra từng miếng
Cũ – mới
trắng – đen
tách – nhập
mất – còn...
Sông Hồng thao thức
Đêm ngoại thành mơ
Cụ thể hơn về sự thao thức,
băn khoăn về các phạm trù đối lập đó,
nhà thơ lo lắng trước “thời gian mối mọt/
Nghiến vào quên nhớ trong ta”:
Kỉ niệm chờ san ủi
Hương khói ông bà chờ khoan cắt bê
tông
Búa tạ nện vào kí ức
Thanh lịch thuở nào vào gầu xúc đổ đi
Bùi Xuân Phái
Một người nặng lòng, nặng tình
với Hà Nội như thế luôn luôn nhạy cảm với những gì rất nhỏ nhoi, khuất lấp:
Một run rẩy heo may
Một hẩm hiu số phận
Và thao thức không yên với dự
cảm mơ hồ : Cái điều không gọi được thành
tên/ Không cầm nắm được” ( Sao cứ phải thi nhân?)
Một điều thú vị là nếu để ý kĩ, sẽ thấy Nguyễn Vũ Tiềm có
rất nhiều câu hỏi trong thơ. Phải chăng thi sĩ vốn là người hay hoài nghi? (
Tác giả đã viết một tập thơ có nhan đề Hoài
nghi và tin cậy). Không hẳn thế. Những câu hỏi trong thơ cũng thể hiện
những băn khoăn của người viết từ chuyện riêng tư, tâm linh đến chuyện thời đại:
Tôi mơ theo mùa, mùa
trong mơ
Em rất thơ, sao thờ ơ với thơ?
Giao cảm bốn mùa
Vô thường hay huyền
bí
Đang vọng về đâu đây?
Non bộ ở Hoàng Thành
Tiếng rao khuya sớm
mỏi mòn
Hay hồn dĩ vãng còn hờn gió sương?
Ngõ Quan Thổ
Bao đê đập cho nền
văn hiến?
Bao lớp kè giữ lấy đức tin?
Ngã ba sông
Người đọc cũng sẽ bắt gặp
những chiêm nghiệm của nhà thơ từng chiêm ngưỡng những độ cao, những độ sâu,
chiêm ngưỡng Kim Tự Tháp, lăng mộ Tần Thủy Hoàng, lăng Lí Thải Tổ, từng : “ Dầm trong vũ thủy, thu phân, sương giáng,
đại hàn/ Bưng lên bát cơm xới đầy thất
bát/ Gắp miếng nhọc nhằn đã muối thành dưa” ( Mưa phồn thực và châu thổ
sông Hồng). Những câu thơ như đúc kết triết lí, khái quát:
Sự thật vừa đánh bóng
Cái giả bỗng phơi bày...
Tôi thực và tôi ảo
Có cái vui đổi lấy
giận hờn
Có thành đạt mang đầy tủi hổ
Có giàu sang chất chứa lọc lừa
Giải thoát
Cái còn trong cái mất
Cái có nảy mầm trong cái không
Gọi hồn làn hương
cũ
Không chỉ thế, ta còn gặp
những thể nghiệm, những tìm tòi đổi mới của thi nhân, khi anh biết rõ : “ Thu nay, những chiếc áo thơ/ Với con số
may đo quen thuộc/Đã không thích hợp” ( Hà Nội mùa thu may áo thơ). Tôi thực và tôi ảo. Lãng tử Hà thành kể
chuyện, đặc biệt là các bài thơ kết thúc mở như Bói thơ, Bánh tôm và sao Hồ Tây thể hiện sự tìm tòi, bứt phá này.
Nhưng tôi nghĩ dẫu sao thì về cơ bản
giọng thơ của Nguyễn Vũ Tiềm đã định hình, một giọng thơ trầm tĩnh, giàu suy
cảm, lấp lánh những nét tài hoa...
Chỉ thấp thoáng đôi lần thôi, tôi bắt gặp từ trắng tay trong câu thơ khuất trong
nhiều câu thơ khác. ( Con đường nào cũng
trầu cau/ Con đường tôi vẫn một màu trắng tay - Thanh lịch trầu cau. Mơ hồ này đổi lấy mơ hồ khác/ Thì anh lại
trắng tay – Sao cứ phải thi nhân?). Nhưng sao tôi cứ ám ảnh bởi mấy từ này? Phải chăng đây là sự hoài nghi
thường thấy ở người nghệ sĩ? Sự hoài nghi riêng của Nguyễn Vũ Tiềm? Có thể.
Nhưng tôi tin rằng, người đã từng viết Thương nhớ tài hoa, người đã viết
trường ca Văn đàn bi tráng và làm tập biên khảo Nghìn câu thơ tài hoa Việt Nam không thể nào tay trắng.
Hà Nội, tháng 8/2011
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét