Nhà thơ Nguyễn Thị Ánh Huỳnh
NGƯỜI ĐÀN BÀ TỈNH THỨC… ĐÒI HẠNH PHÚC
Vũ Nho
Nếu trong tập thơ Không
dám tắt đèn, người viết xưng tôi chân thành thú nhận cuộc định dạng không
thành giữa một mớ cảm xúc lộn xộn :
Cái rời rã cái đâm chồi
Tôi ngồi
định dạng lại tôi
Không
thành
Định
dạng
thì ở tập Đừng
múc cạn nỗi buồn, như có một điều kì diệu, người xưng em đã định dạng mình
rất thành công, chẳng khác nào người tu hành đắc đạo thành chính quả:
chuyện nọ xọ chuyện kia
càn
khôn nhăng nhít
tơ lơ mơ
em tồn tại
đến giờ
một hôm
yêu
để hóa kiến
em bò lên vũ trụ
làm thơ
Tơ
lơ mơ
Từ xưa đến nay, người phụ nữ, phận đàn bà vẫn thường
bị coi là con ong cái kiến, bé nhỏ, phụ thuộc. Thì đây, người phụ nữ ấy nhận
mình là kiến đấy thôi. Nhưng con kiến này có gốc người, nó biết yêu. Nó không
bò bò loanh quanh miệng chén, cũng không leo cành đa, cành đào trong cái thế bế
tắc hoặc luẩn quẩn ra ra vào vào. Con kiến này đã cả gan bò lên vũ trụ và làm
thơ, cất lên tiếng nói dõng dạc chối bỏ thiên đường giả và đòi hạnh phúc đích
thực cho mình, cho đồng loại. Người thơ kiến ấy có tên gọi Nguyễn Thị Ánh
Huỳnh.
Có
thể nói tập thơ Đừng múc cạn nỗi buồn
là một tập thơ bứt phá thành công của Nguyễn Thị Ánh Huỳnh so với chính mình,
và cũng là một tập thơ hay hiếm hoi, mới lạ về cảm xúc và tìm tòi cách
phô diễn trong mặt bằng thơ của
cả nước hiện nay. Tác giả không hề đăng đàn diễn thuyết tuyên ngôn cách tân
nhưng bằng việc làm của mình, điềm nhiên khẳng định sự tìm tòi, đổi mới.
Hình
ảnh người đàn bà, khi đơn lẻ một mình, xưng tôi, xưng em hay xưng chị, khi là
một tập hợp của thế giới phụ nữ, là “những người đàn bà tất tả của hành tinh” (
Mùa trăng rụng, tập Không dám tắt đèn) là hình ảnh tập trung
và chói sáng.
Những
người đàn bà làm như không biết khóc chỉ quen cười
Giữ đất cho bằng để người đàn ông nhớ
Mà quay về
Không
dám tắt đèn, tập Không dám tắt đèn
(KDTĐ)
Những người đàn bà bị dìm bị dập xoáy suốt đời
Bởi sóng của khổ đau, đói nghèo, nô
lệ
Đem tin cậy
trao cho phù thủy
Đem tiếng cười gởi gắm cuồng phong
Không biết mình từ lâu đã nhập áo
quan
Lênh đênh
Thủy táng
Cơn
sóng khác, tập KDTĐ
Thật ra, người đàn bà ấy xưng tôi, xưng em hay chị,
hoặc được gọi trong danh từ chung là người
đàn bà quấn khăn đi lượm nắng trời, người đàn bà liêu điêu trước biển, người đàn bà viễn chinh… thì cũng chỉ là
phân thân của tác giả, cũng đều là phận đàn bà mà Nguyễn Du đã từng xót xa,
thảng thốt: Đau đớn thay phận đàn bà
( Truyện Kiều).
Người
đàn bà ấy đã từng có một tình yêu mơ ước trong trẻo:
Tình yêu
ư…long lanh giọt sương
Chỉ
được ngắm thôi khi gần gũi
Lúc xa vời
Hư ảo để mà thương
Tự
ru, tập Giọt mưa bất chợt ( GMBC)
Chị đã từng yêu say đắm, đã từng có những nụ hôn “bầm
dập cả trăng non”, làm “tối mù trời đất” ( Nụ hôn), đã từng có những phút giây
hạnh phúc bồng con cái như bồng nhật nguyệt ( Vẽ). Nhưng rồi cuộc đời tưởng như
rất suôn sẻ, may mắn ấy có những bất ngờ:
Chưa có mối tình đầu
Chị đã lãnh mối tình
cuối
Để thành bà nội
Hẹn
hò
Thật ra, nào phải cứ nhiều mối tình mới là hạnh phúc?
Cái điều bức xúc trong tâm trạng ấy chính là vì tưởng là hạnh phúc nhưng hóa ra
bất hạnh, tưởng là thiên đường, nhưng lại là địa ngục. Nếu chưa đến mức ấy, thì
cũng là lồng thếp vàng sơn son không
chìa khóa, là thiên đường không lối ra,
tù túng ( Nơi ngụ cư, tập GM BC). Người đàn bà ấy đã chối bỏ thiên đường dành
cho mình:
Thiên đường tình nhân
Thiên đường làm vợ
Thiên đường làm mẹ
Thiên
đường làm ô-sin trong nhà vừa phải kiếm tiền ngoài chợ
Thiên đường làm trâu bò
Thiên
đường
Thật là kinh hoàng khi nơi được gọi là thiên đường mà
không có mây trắng bay, không cỏ non,
cây xanh, không sóng biển, không rạp hát, xi nê…tất cả đều bị cấm, bị đuổi khỏi
thiên đường. Người đàn bà ấy đã hoảng hồn, kinh sợ, đã viện đến trời phật để
xin cho mình không có kiếp sau để không phải vào nơi thiên đường ấy. Và “Đêm
đêm trong giấc ngủ/ Chị chạy trốn thiên đường” ( Thiên đường).
Người
đọc bắt gặp một nụ cười buồn, hài hước,
chua chát của một vị nữ vương trong vương quốc thiên đường, cái ao tự do bé nhỏ:
Trong nhà
có bà vua
Lên
ngôi
Thành
giẻ lau nhà
Vương
quốc
Chổi
cùn, rế rách
Làm
vua không?
Vị nữ vương ấy được người ta xưng
tụng, xu nịnh, tán dương “ sướng muốn chết”, nhưng sự thật thế nào. Hãy nghe
lời người “sướng muốn chết” thanh minh,
phản bác đượm vẻ mỉa mai:
Làm mẹ ba đứa nhỏ sướng muốn chết
Thành
bà nội được làm ô sin sướng muốn chết
Sướng
muốn chết khoảng trời xanh sau bếp
Mưa
cho suối chảy trong nhà
Có
khi trời xuống la đà nồi niêu
Sướng
muốn chết
Người đàn bà vốn hiền lành ấy như
bao người phụ nữ Việt Nam giàu đức hi sinh, che giấu những nỗi đau để có vẻ
ngoài bình thản. Chị đã hơn một lần mượn hồn ốc:
…nhận vết cào gai
Lòng tưa máu để…vỏ ngoài
bớt đau
Mượn
hồn ốc, tập KDTĐ
Chị đã chắt chiu, gom góp niềm vui, quý trọng những
ngày hằng sống:
Thôi ngày
thương mến ngày chưa vắng
Xin
chia nhau- dù ít ỏi tiếng cười
Mua sắm cho một mai, tập KDTĐ
Sự gắng
gỏi tươi cười như trái ớt “ càng tươi
ngoài vỏ, càng cay trong lòng” ấy đã gây
ra sự hiểu lầm, ngay cả những người thân gần nhất. Họ tưởng rằng chị “cười hoài
không biết khóc”. Chị đã phải nói với con, chỉ nói
thầm thôi:
Con ơi mẹ khóc một đời
Không
ai thấy chỉ soong nồi cảm thương
Cảm
ơn khóc
Một đời khóc thầm” một mình mình
biết, một mình mình hay” và chỉ có những vật vô tri cảm thông, chia sẻ. Chính
vì thế mà người đàn bà ấy phải tìm đến thơ để giải tỏa, để những giọt nước mắt
có nơi mà chảy:
…giấu nước mắt vào thơ
Cảm ơn giọt lệ bơ vơ làm
người
Cảm ơn khóc núp trong
cười
Cảm ơn nước mắt chết rồi
còn tuôn
Cảm ơn khóc
Nước mắt chết rồi còn tuôn. Sự đau khổ tột cùng này
gặp gỡ khát vọng yêu tột cùng của Xuân Quỳnh với trái tim “biết yêu anh cả khi chết đi rồi” ( Tự hát).
Khi
người đàn bà tỉnh thức là khi người ấy nhận thức lại thế giới, tự định dạng lại
mình, và cũng xem xét lại tất cả những gì đã thành thói quen, đã thành lề thói,
trói buộc. Sẽ không có gì ngạc nhiên khi sự phản tỉnh sẽ dẫn đến những phản ứng
gay gắt. Mà gay gắt nhất là đối với những gì tù túng, nô lệ. Mọi hình thức nô
lệ sẽ bị phản đối kịch liệt, dù là dưới hình thức hào nhoáng “lá vàng làm con ở
của mùa thu” ( Sướng muốn chết), hay trong sự trần trụi nô lệ của hầu bao:
Một đời nô lệ hầu bao
Một đời bỏ cái tào lao
theo chồng
Chuyện
tào lao
Nếu không là người phụ nữ làm thơ, không phải là người
trăn trở về hạnh phúc thì có lẽ chị sẽ
là người yên phận, dễ thỏa hiệp, dễ chấp nhận. Nhưng chị cần có “nhu cầu cười” và cần có “cảm xúc
khóc” ( Bóng ngõ nhỏ, tập GMBC), mà những thứ đó lại không có hoặc quá ít. Chị
cần trời xanh, trăng sáng, hoa nở, chim kêu nhưng các thứ đó bị coi là “tào
lao” và “không ăn được”. Bởi vậy mà người đàn bà bị ám ảnh bởi cảm giác đói:
Mắt đói mắt
Tai đói tai
Môi đói
môi
Mũi
đói mũi
Da thịt đói da thịt
Linh hồn đói linh hồn
Chuyện
tào lao
Sự đói khát triền miên đó, khi tỉnh thức tất yếu sẽ
dẫn đến sự nổi loạn. Đầu tiên là nín lặng chịu đựng:
Chị nín thinh như bàn ghế nồi niêu
Mèo
gào
Rồi đến việc đánh mất tình yêu “ Ngay trong nhà mình/ Chị không còn chỗ trú” và “ Trong đôi mắt anh/ chị không tìm thấy chị”
( Đồng tính). Thế là uổng phí cả một ước vọng “tập/ chết đuối/ trong gương/ để em/ được chết đuối/ trong mắt anh/ mãi
mãi” (Chết đuối). Rồi chị ngoại tình với thiên nhiên, với sóng, với gió,
với đất, với cỏ. Chị chờ đợi mùa thu ảo, đợi “một người chưa có thật” với hi vọng : “ Ngoài kia lông ngỗng đầy trời/ Mùa thu rắc lối cho người tìm em” (
Mùa thu ảo). Chị tẩy chay người tình , người phụ bạc:
Bông hoa
tẩy chay ong bướm
Em tẩy chay anh, đất tẩy chay trời
Thiên đường là kẻ khác
Dịu dàng qúa dịu dàng không chịu nổi.
Thi sĩ Nga đã viết câu thơ ca ngợi bản chất dịu dàng của phái nữ. Người phụ nữ
nào cũng có thiên tính dịu dàng, và họ cũng muốn được dối xử dịu dàng. Sự dịu dàng là vũ khí, là phép màu kì diệu:
Ôi sự dịu
dàng
Có
thể biến sư tử thành nai
Thiếu
dịu dàng
Con
nai trong nhà ta có cơ thành sư tử
Dịu
dàng ơi
Đến khi người phụ nữ đánh mất sự dịu
dàng thì chỉ còn phẫn nộ và giông tố của
sư tử :
Em nổi điên lên
xé đôi trời đất
xé anh thành muôn mảnh
Gió
thất tình
Khi tình yêu bị phản bội, bị dối lừa thì chỉ còn sự thù hận và nguyền rủa.
Thật cũng chưa thấy ai dữ dội như người đàn bà này, kiên quyết và dứt khoát như
người đàn bà này:
Em căm thù anh
Tình yêu giết người
Em đã chôn anh
Trăm lần
Vạn lần
Trong
nghĩ địa ngày tháng
Nấm
mộ
Tuy vậy, vẫn thấy ở đây sự tôn
trọng “kẻ thù”. Kẻ đó vẫn được gọi bằng anh và người nguyền rủa vẫn đủ
bình tĩnh, sáng suốt để nhận ra rằng mình chính là nấm mộ chôn người tình nên anh ta vẫn có thể đêm đêm chui
ra lần mò như tên ăn trộm.
Thật
cũng chưa có ai kết án kẻ phụ tình nặng nề như người đàn bà này, khi tuyên án tội
trạng tặng cái nhìn thuốc độc, biến con nai thành sư tử, biến cô gái nhà lành
dịu dàng thành người đàn bà tàn ác ( Ai đã tặng cái nhìn thuốc độc?). Trong khi
tuyên án nặng nề như thế, người đàn bà ấy vẫn đủ tỉnh táo để nhận ra lỗi đồng
phạm, lỗi tiếp tay của mình : “ ma ám em/
quỷ ăn thịt em[…] em ngu ngốc/ gật đầu ( Làm vua không?) và “đêm đêm / em rơi hết mắt/ giấc ngủ mù/ chiêm
bao mù[…] tình yêu mù ( Đêm lưng lửng anh). Điều ấy càng làm cho chúng ta
tin cảm xúc của chị hơn, bởi vì nếu không, những lời rủa nguyền nặng nề kia sẽ chỉ được coi là
những lời bi phẫn của người quá đau khổ không còn sự kiểm soát của lí trí; chỉ
có thể gợi cảm thông và cảm thông thôi.
Người
đàn bà tỉnh thức, nổi loạn, nghiệt ngã
ấy vẫn là một người đàn bà sáng
suốt hiền lành trong bản chất.
*
Ngoài
ấn tượng mạnh mẽ về người đàn bà tỉnh thức,
thơ Nguyễn Thị Ánh Huỳnh còn thể hiện một cách nhìn mới, một lối tư duy
và phô diễn mới. Có thể tìm thấy sự sắc sảo trong những phát hiện:
Có sự im lặng làm ù tai
Có
những tiếng ồn ào chữa bệnh điếc
Trời
đói chim
Ai bảo bóng tối chứa âm mưu
Cái thiện
dễ nảy mầm trong đêm
Cái ác hay nhân danh mặt trời
Cho
em một li quỷ sứ
Chị còn muốn tranh luận với Giăng pôn Sác với mệnh đề
“Thiên đường là kẻ khác” thay vì “Địa
ngục là kẻ khác”. Vấn đề không phải là để phân thắng thua mà cái chính là để
chị khẳng định:“Địa ngục là ta cát cứ
mình” (Thiên đường là kẻ khác). Đối với nước mắt chị cũng phân chất và định
lại giá trị:
Người mù
Có giọt lệ sáng
Người điên
Nước mắt tỉnh
Người ác
Không có nước mắt
Người ít khóc
Tim đau
Nước
mắt
Chị phát hiện ra “con
chim thời gian”, “con chim ăn sắc đẹp
đàn bà” để lại “dấu chân thật thà trên gương mặt đàn bà nhàu nhĩ”, và bản thân mình cũng không là ngoại lệ:
…chim thời gian
đi qua đời em
để lại những dấu chân
biết khóc
Tình yêu
thích lên trán em
dấu ấn chim muông
Con
chim thời gian
Chị viết về người tình đã chết, câu bé mười tám tuổi,
vẫn đêm đêm trở về bên cạnh “ông nội của sắp nhỏ” và mong mỏi người “trùng tên”
hãy đưa mình về ngày xưa ( Hãy đưa em về ngày xưa). Một cách diễn đạt bất ngờ
mà thú vị, vì hai người “trùng tên” là một người của ngày xưa và một người của
bây giờ. Cảm giác nuối tiếc thời xưa, thậm chí nuối tiếc hôm qua thôi là một
cảm giác có thật, một cảm giác thường trực. Bởi thế mà năm xưa có thể “bẻ trăng sừng bò cho các con anh bú”,
còn bây giờ thì chỉ còn trăng ( Trăng sừng bò).
Năm xưa tình yêu ban đầu vui như
gàu, bây giờ là kết thúc buồn như
nước (Đừng múc cạn nỗi buồn). Thậm chí là hôm qua khác hôm nay. Vẫn buổi
chiều đấy mà là buổi chiều không có hôm qua : Ôi những buổi chiều/ không có hôm qua/em vẫn còn anh/ mà góa những buổi
chiều ( Buổi chiều không có hôm qua).
Bài ca thiên nga phát hiện chưa bao giờ con người mang tái tim thiên
nga, dù họ nặng lời thề thốt. Đối thoại
với bọ ngựa là những suy ngẫm sâu sắc về bản chất người, về phần Con và
phần Người, phần rắn rết ma quỷ và phần
phượng hoàng thần thánh ( như Nguyễn Minh Châu viết trong truyện ngắn Bức tranh). Cái đẹp, Không ai
dám lấy chị là sự tôn vinh, ngưỡng mộ cái đẹp, khẳng định cái đẹp vĩnh cửu…
Thơ Nguyễn Thị Ánh Huỳnh đem đến một cái nhìn mới mẻ, một cách tiếp
cận mới mẻ, một giọng điệu mới mẻ của
một cây bút nữ. Đó là một cây bút hiếm hoi, độc đáo. Sự chân thành riết róng
của chị là biểu hiện của một sức sống dào dạt, khao khát đấu tranh cho tình yêu và hạnh phúc đích thực của con
người.
Hà Nội, 21/9/2008
Thơ chị Ánh Huỳnh (cái tên gọi buồn) như bác Vũ bình: Độc đáo và hiếm hoi, chân thành. Liệu có riết róng không. Tôi đọc thấy buồn. Có thể là tâm trạng của chị.
Trả lờiXóaMong rằng đời chị không phải thế. Chỉ sợ nó vận vào 'khó nghe'.
Chúc nhà thơ vui!
Cái thiện vẫn nảy mầm trong đêm cho Bạn.
Cám ơn VanPham. Chị Ánh Huỳnh đã lên chức Bà Nội lâu rồi. Đúng là thơ của chị ấy đầy khát khao và tâm trạng.
Trả lờiXóa