NỖI BUỒN NHÂN THẾ TRONG “VẾT THỜI
GIAN”
Đọc tập thơ Vết thời gian của Nguyễn Đức Hạnh *
Vũ Nho
Hơi
lạ một điều là thơ của Nguyễn Đức Hạnh, một nhà giáo, một nhà khoa học có học
vị Tiến sĩ hẳn hoi, nhưng không hiểu sao, không hề có dấu vết nào của hai cái
nhà ấy trong tập thơ “Vết thời gian”. Cứ ngỡ như một anh nào đấy làm nghề
tự do, hay một anh chuyên bán hàng rong trên phố nhưng lòng dạ đang ngổn ngang
bao nỗi lo phía nhà quê:
Tôi
ôm đòn gánh tôi ngồi
Đôi
quang gánh trĩu ngàn lời xót xa
Bão
giông trắng cánh đồng nhà
Khoai
gầy nuôi mẹ, sắn già nuôi con
Chợ đời
Đọc
kĩ bài thơ mới thấy hóa ra những khoai gầy với sắn già kia chỉ là hình ảnh có
tính biểu tượng, và cả đôi quang gánh
nữa- không phải là quang gánh thật mà chỉ tượng trưng cho nỗi vất vả gánh nỗi
buồn nhân thế đem bán chợ đời. Quả thật,
thơ Nguyễn Đức Hạnh nói khá nhiều đến nỗi buồn. Tác giả thường nhạy cảm với
những tất bật, toan lo, dầu dãi, cay đắng, ngậm ngùi và nhiều nhất là buồn. Một
số nhan đề bài thơ của anh cũng đã gợi buồn : Chợ đời, Buồn chân quê, Chợ
chiều, Lỗi hẹn, Đàn lạnh, Nỗi buồn mơ…Nhưng càng đi sâu vào cảm xúc cụ thể lại càng thấy buồn
nhiều hình, nhiều vẻ : Buồn tím tái chiều đông, buồn méo, buồn tròn, buồn
trong, buồn đục, buồn tỉnh, buồn say…Đây là một nỗi buồn lớn khi anh tới chợ chiều “bày hàng
khát vọng, bán lời ước ao” :
Chợ
chiều người đã vắng không
Tôi ngồi phơi
hết mấy nong nỗi buồn
Em qua như
một làn hương
Đêm
về nhẩm tính lãi buồn gấp đôi
Chợ
chiều
Đi
chợ bán hàng mà lãi thì đáng mừng vui rồi. Nhưng lãi buồn gấp đôi thì chẳng
biết là có thể vui được không? Có thể nói là nỗi buồn nhân thế luôn thường trực
trong người cho nên đi đâu, nhìn gì, thi sĩ cũng thấy nhuốm buồn. Nghe đàn trên
sông Huế, anh cảm buồn : Mắt buồn như
đáy sông sâu/ Đàn mưa từng giọt nát nhàu vừng trăng ( Đàn lạnh).
Vắng người thương mến thì dù có bao nhiêu là người, cái buồn vẫn vây chật xung quanh : Đông người mà chẳng có
em/ Núi thành sa mạc buồn chen nỗi buồn ( Đếm mưa). Nỗi buồn ấy nhuốm lên
Tháp Bà Nha Trang, dù cảnh Nha Trang là cảnh vui : Nha Trang cười mê mải/
cầu Xóm Bóng phân vân/ Tháp Bà buồn rười rượi ( Ngẫu hứng Nha Trang). Đem
con mắt buồn, tấm lòng buồn để nhìn hàng thông Đà Lạt, lập tức hàng thông ở đây
thành hàng thông xanh màu buồn : Những hàng thông xưa cũ/Xanh nỗi buồn trăm
năm (Tự tình cùng Đà Lạt). Nhìn con thuyền trên sông Cầu của Thái Nguyên,
anh cũng có cảm giác nó đang chở buồn về đâu đó : Thuyền chở buồn tênh lệch
cánh buồm( Buồn chân quê).
Có
một điều cũng cần ghi nhận là kêu buồn, than buồn, những Nguyễn Đức Hạnh không
muốn đổ buồn sang cho người đọc, cũng không kêu gọi sẻ chia, hay thông cảm. Anh
tự giữ lấy nỗi buồn trong mình để sống nhân hậu, tử tế hơn với mọi người, với
cuộc đời. Có một phút anh muốn rời bỏ nỗi buồn sầu, nhưng lại phân vân : Thả
xuống sông nỗi u sầu/ E đau bờ biếc, e nhàu sóng êm
(Ngẫm nghĩ xuân). Thành ra nỗi buồn
kết đọng trong thơ anh, coi như một đặc sản của cá nhân anh. Mà đã là đặc sản
thì chẳng phải dễ bỏ đi hay thay đổi. Nhất là trong thời buổi kinh tế thị
trường. Đáng trân trọng hơn nữa là thái độ và hành động tự nguyện của anh :
Lòng
tôi chiếc vại ân tình
Muối
bao chua xót không thành lãng quên
Nỗi
buồn mơ
Nhưng
thơ Nguyễn Đức Hạnh không chỉ có thế. Anh còn có những bài thơ tình ( lại cũng
là tình buồn) có những câu thơ có thể găm vào trí nhớ bạn đọc. Anh còn có những
kỉ niệm đẹp với Đà Lạt, Nha Trang, với Huế, với Thái Nguyên. Lúc này tưởng như
gặp một con người khác, không phải với với khuôn mặt và trái tim buồn, mà là
một người kiêu hãnh và ngang tàng, khao khát :
Bát
rượu vùng cao như sông mùa lũ
Mắt
em thả một lá thuyền
Tôi
uống cả sông Lô, sông Miện
Mai
xa rồi hồn bỗng hóa Yên Biên
Thảng
thốt Hà Giang
Cái kiêu hãnh có chút ngông nghênh
bất cần thi sĩ ấy ta có thể bắt gặp trong cuộc uống hoành tráng với các bạn thơ
Khánh Hòa :
Nào
ta uống với mặt trời
Dăm
ba li nắng cho đời mênh mông
Nào
ta uống với bão giông
Dăm
ba li gió, say không giãi bày
Nào
ta uống với mây bay
Dăm
ba li nữa, rót đầy nhớ quên.
Uống như thế còn chưa đủ độ, cho nên
phải uống cả Nha Trang để làm thơ tình, để ghi nhớ tình cảm với bạn bè một thuở
thi nhân :
Rót
Nha Trang vào thẳm sâu
Liêu
xiêu phố, lảo đảo câu thơ tình
Nha
Trang say
Là
một người ân tình, nên thi nhân say sưa ca ngợi những miền đất anh từng
qua chốc thoáng hay từng gắn bó dài lâu.
Anh tự tình, anh ngỏ lời, anh quăng lưới, anh say đắm những Hoàng cung, Nha
Trang, Đà Lạt, Thái Nguyên- nơi anh neo đậu cuộc đời mình. Nhưng nổi bật nhất trong
những địa danh ấy, không rõ vì sao lại là Hà Giang. Nguyễn Đức Hạnh có những
câu thơ thật ấn tượng và đẹp về Quản Bạ
:
Nhà
li ti ấm chân núi
Nắng
nhuộm vàng rực rỡ nương ngô
Quản
Bạ hóa nàng sơn nữ
Về
Quản Bạ
Chẳng những anh thảng thốt Hà Giang,
mà tôi tin không ít bạn đọc cũng thảng thốt khi nhìn Hà Giang bằng cách của anh
:
Hà Giang là quả còn ném lên trời biếc
Sông Lô là tua còn màu xanh
Vòng còn là vòm trời ngọc bích
Thảng
thốt Hà Giang
Và còn nhiều điều thảng thốt khác
trong bài thơ rất ân tình với Hà Giang ấy.
***
Hình
như có một cái gì đấy kìm nén để thơ Nguyễn Đức Hạnh chưa trội vượt hẳn lên,
mặc dù tiềm năng thi sĩ của anh là khá lớn. Phải chăng, giống như sự phát hiện
của anh về mảnh đất Thái Nguyên “nơi gặp gỡ lạ lùng”:
Dấu
thật sâu bao xoáy dữ, sóng ngầm
Một
chút hào hoa, chút giang hồ lãng tử
Một
chút chân quê, một chút thâm trầm.
Thái Nguyên
Dĩ
nhiên tổng hợp mỗi thứ một chút lại thì không phải là làm phép cộng. Nó sẽ có
sự biến đổi từ lượng thành chất. Nhưng nếu đẩy lên, rốt ráo thêm để cái một
chút ấy lớn hơn, đủ gây ấn tượng mạnh thì sẽ ra sao ? Một chất khác sẽ hình
thành từ một lượng khác.
Hình
như, nhà thơ có lúc cũng đã tự nhận ra điều đó và đã hạ quyết tâm :
Cho tôi tát cạn ngượng ngùng
Mò khát vọng giữa dòng sông kiếp
người.
Hẹn
Chúng
ta sẽ chờ xem anh thực hiện lời hẹn của anh thế nào trong những thi phẩm mới.
Hà Nội, 26/11/2005
---------------
*) Hội văn học nghệ thuật Thái
Nguyên, 2004.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét