Thứ Tư, 20 tháng 3, 2013

VÚT LÊN LÓNG LÁNH VUI BUỒN TRẦN GIAN





VÚT LÊN LÓNG LÁNH VUI BUỒN TRẦN GIAN
                                                      Vũ Nho

          1. Lê Khánh Mai là một cây bút nữ  đắm say, bền bỉ, chung thủy với thơ ca. Và chính sự đắm say, bền bỉ, chung thủy đó đã được đền đáp. Đam mê thơ, cần mẫn sáng tạo, trăn trở đổi mới, khát khao bứt phá và hoàn thiện đã tạo  cho thơ chị một gương mặt, một giọng điệu riêng.
          Thường thì các nhà thơ, nhất là các nhà thơ nữ ngày nay, hay viết về cái tôi thân phận cá nhân của mình. Đó vừa là xu hướng hướng nội ( để khắc phục tình trạng toàn hướng ngoại một thời), vừa là khát vọng bộc lộ, khẳng định cái “tôi” của người viết. Lê Khánh Mai cũng thế nhưng không chỉ có thế. Làm thơ từ thời sinh viên, xuất hiện khá sớm trên thi đàn ( năm 1984 với tập thơ in chung Dòng sông khoảng đời), Lê Khánh Mai thể hiện một bút lực dồi dào với đề tài thơ phong phú và đa dạng. Có thể nói Lê Khánh Mai là một trong số không nhiều cây bút nữ  có thành tựu cả ở ba lĩnh vực truyện ngắn, tiểu thuyết và thơ; trong đó nổi trội nhất là thơ. Chị đã từng phát biểu về tính cách miền Trung :
          Chắt chiu mà rộng mở, đằm sâu mà mạnh mẽ, bộc trực mà ân tình, đam mê mà tỉnh táo, ẩn nhẫn mà vượt thoát” (Tạp chí Thơ số 23, 5/2005). Tôi nghĩ, thơ Lê Khánh Mai là một trong những thể hiện tiêu biểu và sinh động của tính cách ấy.
          Xuyên suốt 7 tập thơ đã in của Lê Khánh Mai là tình cảm đằm sâu ân tình với quê hương đất nước, ám ảnh thân phận đàn bà và khát vọng thơ ca, trăn trở về vận mệnh thơ, sự đa đoan của trái tim thi sĩ.
          2. Sinh ra ở miền Nam, lớn lên trên đất Bắc, trở về  xứ Trầm Hương trong những ngày đất nước đầy rẫy khó khăn sau khi thống nhất, Lê Khánh Mai có tuổi thơ và tuổi thanh xuân thấm đẫm gian nan, vất vả. Chị “sinh ra từ bùn” trên cánh đồng chiêm, lớn lên trong hoàn cảnh  gieo neo đặc biệt:
          ám ảnh đêm dài cơn mơ chăn nệm
          căn nhà tập thể chín mét vuông
          tôi chen nhau với sách vở đèn dầu, chai lọ
          Mẹ tôi gương mặt mùa đông góa bụa
          thức dậy bốn giờ sáng, ra đi hun hút gió
          đón chuyến xe đầu ngày
          cà mèn cơm rau muốn, đậu phụ bữa trưa công sở
          Tuổi thơ tôi côi cút co ro
                             Hà Nội mùa đông đầu thế kỉ
Phải chăng vì thế mà Lê Khánh Mai luôn biết ơn mẹ, biết ơn cuộc đời, biết ơn những vùng đất đã đùm bọc, cưu mang? Và đồng thời chị cũng biết chắt chiu, nâng niu những hạnh phúc đơn sơ, niềm vui nho nhỏ từ cuộc đời bề bộn vất vả, gian lao?
          Những câu thơ về quê hương Tu Bông nhiều gió “Con gái Tu Bông suốt ngày tóc rối/ Người dân gồng mình đỡ cơn gió xối”; về xứ Trầm Hương “ Lặn vào giông bão thầm thầm tỏa hương”; về Hà Nội “tuổi thơ ở lại”; về Nha Trang “ căng mình trước đại dương/như vồng ngực trần của chàng trai vạm vỡ/ kiêu hãnh và trẻ trung trong nắng gió mặn mòi” là những câu thơ  tràn đầy tình cảm được viết ra từ “một tình yêu suốt đời mắc nợ”.
          Thơ Lê Khánh Mai trân trọng, nâng niu những hạnh phúc đơn sơ, vì đó là niềm “ hạnh phúc chắt ra từ cay đắng, nhọc nhằn” ( Vòm trời cổ tích). Niềm vui, hạnh phúc đó có thể là trong gia đình nhỏ bé của chị:
          Nhà ta nghèo nhưng đầy ắp niềm vui
          mái dột, trời mưa, xoong chậu đem ra hứng
          con ướt át lấy đũa khua chiêng trống
          hát nghêu ngao chẳng ra cuối ra đầu
                             Chàng trai của mẹ

Đó có thể là  niềm vui của những người đàn bà bình thường tất tả mưu sinh:
          Những người đàn bà tong tả gánh gồng
          ngược xuôi buổi chợ
          quán nhỏ xiêu nghiêng
          mời mọc những buồng dừa trĩu quả
          như bầu vú mơn mởn, tươi non
                             Ninh Hòa đoản khúc
Đó là niềm vui như hội trong ban mai của  người đàn bà xứ biển, của những dân chài với mất ngủ, với nụ cười nhễ nhại:
          Người đàn bà xứ biển hằng đêm mất ngủ
          đợi chồng về từ phía hừng đông
          bến cá mỗi ban mai mở hội
          tấp nập thuyền ghe, nhễ nhại những nụ cười
                             Nha Trang của tôi
          3. Thơ Lê Khánh Mai thường đề cập đến bổn phận, thân phận, số phận của kiếp đàn bà, của chiếc lá, hạt cát, bông hoa- những vật mỏng manh, nhỏ bé gần với đàn bà. Có đến hơn hai mươi bài thơ trong số một trăm lẻ bảy bài trong tập Giấc mơ hái từ cơn giông nhắc đến từ phận. Đây là vài ví dụ:
          Đàn bà
          đôi vai oằn bổn phận
          chông chênh đỉnh cô đơn
                             Bổn phận
          Mang thân đàn bà phận lá
          nào ai lường hết nẻo tình
          đã đau đến cùng sỏi đá
          thì thôi mình thương lấy mình
                             Bạn gái
          Đau chi thế thái nhân tình
          Nhỏ nhoi hạt cát phận mình mà thôi
                             Ru trái tim buồn
          Câu thơ nước chảy bèo trôi
          Vẫn nghiêng về phía phận người khổ đau
                             Hương cỏ
Đức tính của phụ nữ Việt Nam là nhẫn nhịn, hi sinh. Yên phận, cam phận thành ra một nết đẹp buồn. Đầu thế kỉ XX, bà Tú Xương là một ví dụ :
          Một duyên hai nợ âu đành phận
          Năm nắng mười mưa dám quản công
                                      Thương vợ – Tú Xương
Nói nhiều đến bổn phận, sự cam phận, nhưng Lê Khánh Mai không ca ngợi bổn phận như là  ưu điểm : “ bổn phận là cánh buồm / mắc cạn / mòn đời ngưỡng vọng khơi xa…Một ngày kia/ ta về nơi gió cát/ không để lại dấu vết/ bổn phận nhạo cười tiễn đưa ta” (Bổn phận). Nhà thơ cũng mạnh bạo và đầy tính thuyết phục nói đến nỗi đau không thể hóa đá của những phận đàn bà:
          Xứ sở này liên miên chiến tranh giặc giã
          cổ tích hàng thiên chẳng ghi hết nỗi buồn
          trùng trùng đá không tạc nổi bao đợi chờ, chia li truyền kiếp
          cô đơn đến kiệt cùng có hóa đá được đâu
          đàn bà vẫn phải đau
          nỗi đau của hình hài xương thịt
          hồn vọng phu mòn mỏi xác thân phàm
                                      Kiếp vọng phu
Chị thấy phận mình trong thân phận của những người cùng giới, nhưng người oằn bổn phận trên vai; nhưng không cam phận, vượt lên số phận, vượt lên hoàn cảnh, hi sinh, nhận lấy phần thua thiệt để đem niềm vui, hạnh phúc cho mọi người, như loài trai biển “đau kia kết ngọc/ cho người long lanh” ( Nỗi niềm).
          Có nhiều hình ảnh người đàn bà trong thơ Lê Khánh Mai. Người đàn bà bán rau, người đàn bà “ hát ru thầm một kiếp vùi quên”, người đàn bà lặng im như cát, người đàn bà đi chợ, người đàn bà làm thơ “ ngày ngày cày trên trang báo/ câu thơ yểu mệnh đêm trường”, người đàn bà vọng chồng hóa đá, người đàn bà “đã chờ con suốt hai mươi lăm năm/ và sẽ chờ mãi mãi”,… Không chỉ có nhận thức sâu sắc về bổn phận, mà còn có sự cảm thông chia sẻ với “phận người khổ đau”. Và hơn thế nữa, Lê Khánh Mai tôn vinh, ca ngợi  họ.
          Cánh buồm” là bài thơ độc đáo ca ngợi người đàn bà sinh nở, ca ngợi vẻ đẹp và thiên chức làm mẹ. Bài thơ gợi nhớ đến truyện ngắn nổi tiếng của M. Gorki “ Một con người ra đời” nhưng nhà thơ nữ thiên về ca ngợi vẻ đẹp chứ không nhấn mạnh sự đau đớn, niềm vui làm mẹ và “chức vị làm người”:
          Người đàn bà trong cơn đau sinh nở
          đẹp như một thiên thần
          Không điểm phấn tô son
          chẳng lượt là khăn áo
          chị chín đầy như hoa trái mùa xuân
                                      Cánh buồm
Lê Khánh Mai ngưỡng mộ Xuân Quỳnh, đã làm luận văn thạc sĩ về thơ Xuân Quỳnh. Và chị đã viết thật sâu sắc, cảm động về bàn tay của nữ nhà thơ, cũng là bàn tay tảo tần của phụ nữ Việt Nam mọi thời đại:
          Bàn tay gài khuy áo cho chồng
          khép cửa phòng khi trời trở gió
          vỗ giấc con thơ, nhặt rau nhóm lửa
          tất bật sớm chiều, giặt giũ, vá may
          rồi bàn tay cuống quýt nắm bàn tay
          để yêu thương khi yên ngày thác lũ 
          Bàn tay viết những câu thơ bão tố
          về khát vọng tình yêu
                   Bàn tay chị Xuân Quỳnh
Chúng ta thấy thấp thoáng bóng dáng bài ca dao Mười tay trong sách giáo khoa, nhưng có lẽ người đọc cũng hiểu như tôi rằng bàn tay nhà thơ Xuân Quỳnh ngày ấy cũng là hình ảnh bàn tay tảo tần của người viết bây giờ…
          4. Cũng như nhiều người làm thơ, Lê Khánh Mai có ý thức chia sẻ với bạn đọc về ý nghĩa của thơ ca, về những nỗi vất vả gian nan của người thơ, và một chút riêng tư thi sĩ.
          Với người làm thơ, thơ không là cơm ăn, không là nước uống, không là tiền bạc. Thơ không là vật chất, nhưng thơ có sức mạnh nâng đỡ, cứu rỗi con người:
          Khi tôi rơi xuống hố thẳm khổ đau
          thơ vực tôi đứng dậy
                             Tôi và thơ
Thơ cũng không phải là mảnh đất mỡ màu, càng không phải trò chơi con chữ, thơ đòi hỏi sự  hi sinh:
          Trả giá một đời chỉ gặt hái đôi câu
Buồn vui của thơ là buồn vui của đời, nhưng đem được những vui buồn đó đến cho bạn đọc không phải là một công việc dễ dàng:
          Mỗi câu thơ mang bóng dáng nụ cười
          hay nước mắt buồn đau số phận
          tôi đã đổi bằng bao cay đắng
          có khi như vắt kiệt chính mình
                             Tâm sự thơ ca
Nhà thơ cũng cho bạn đọc thấy những thoáng chốc riêng tư của một tình cảm âm thầm:
          Em ngồi hóa núi lặng thinh
          nghiêng thẩm biển cạn, vọng tình thẳm xa
                                                Vọng
Một xao xuyến bâng khuâng:
          Người còn giữ lửa chung tình
          để ta ươm bão ủ xanh đợi mùa
                                      Đợi mùa
Một chiêm nghiệm về tình ái:
          Rằng yêu là cái nghiệp đời
          càng mê mẩn lắm, càng rời rã đau
                                        Ơi người
Một  tâm sự  gần như tự thú:
          - Em khát sống
          những gì chưa kịp sống
          và vội yêu
          những gì chưa được yêu
          em thất thường, nắng sớm mưa chiều
          và hoang tưởng như cầu vồng bảy sắc
                                      Khát
          - Anh, người đàn bà ấy và em đều biết mình vô lí
          nhưng chúng ta từ chối giải thoát mình
                             Nhận diện một tình yêu
Những câu thơ tình yêu của Lê Khánh Mai là những lời giãi bày, sẻ chia chân thành của một “trái tim chớp bể mãi còn đa đoan”.

          5.Là người đắm đuối với thơ, một cây bút có tính chuyên nghiệp cao về thơ, Lê Khánh Mai thường trăn trở suy nghĩ về phận thơ, phận người sáng tạo. Chị không giấu niềm băn khoăn:
          Chết vùi đi hay là thắp lửa
          Đơn giản vô cùng sao cứ mãi phân vân
                                      Khát vọng
Tất nhiên , băn khoăn, phân vân, nhưng chị đã chọn thắp lửa, đã chọn cháy lên, chọn “vắt kiệt mình để nuôi một giấc mơ”( Giấc mơ tôi hái). Người viết thường phải có cao vọng, có khát vọng ( và không tránh khỏi nhiều khi là ảo vọng). Lê Khánh Mai cũng vậy. Hơn một lần chị nói với người cha đã khuất: “ Trong con một niềm tin bất tuyệt/ con sẽ hái những vì sao xa lắc/ bởi vì có cha nâng cánh cho con” ( Cha ơi!). Khát vọng của chị hướng lên vời vợi chốn cao xanh, hướng xa thăm thẳm ngàn khơi, hướng tới xa tít  chân trời màu lam:
          Thắp lên niềm kì vọng bầu trời
          tôi kí thác hồn mình nơi cao xanh vời vợi
                                                Tâm khúc
Tuy nhiên, sự  mãi phân vân trong tình cảm là có thật. Bởi thế mới có một hiện tượng như là mâu thuẫn. Khát vọng hái vì sao xa lắc, khát vọng thắp lên niềm kì vọng bầu trời, nhưng  khi tỉnh táo, lại có cảm giác tự ti về thân phận:
          - Có ta trời thản nhiên xanh
          Không ta mây trắng yên lành vẫn trôi
                                      Đơn sơ
          - Tôi là ai
          Bạn là ai
          chỉ như khói thoảng sương bay thôi mà
          đường về La Mã vời xa…
                                      Ơi người
          - Nhà thơ, thi sĩ, thi hào
          những danh hiệu cao vời
          xin dành cho tiền nhân, hậu thế
          ta- người thơ tỉnh lẻ
                   Uống rượu với bạn thơ Đăk Lăk
Hình ảnh con thuyền nhỏ hay cũng chính là phút nản lòng của người ôm hoài bão lớn lao : “ Và run rẩy/ úp vào ngực cát/ khóc một niềm vô vọng ngàn khơi” (Con thuyền nhỏ).
          Muốn bứt phá, muốn “sống vượt mình”, muốn “quên mình là đàn bà” nhưng lại vấp rào cản bổn phận, lại quay về với bình yên ngày thường “ Cho em về nương tựa vào anh/ nối kết buồn vui làm cánh võng”.  Yên ổn, để rồi sau đó lại “vẫn khát viết vần thơ định mệnh” ( Khát).
          Lê Khánh Mai từng hoài nghi, những chính là khẳng định sự lựa chọn tỉnh táo của mình: “Có thể nào chạy trốn đời thường nhật/đánh đổi cái vững bền lấy cái mong manh” ( Đời thường). Khát vọng bề cao, bề rộng, bề xa là có thật; khát vọng khai mở những con đường là có thật. Nhưng đó là “cái mong manh”. Lê Khánh Mai đã chọn “cái vững bền”, chọn “đời thường nhật” và tìm thấy hạnh phúc của mình, nguồn thơ của mình ở đấy. Nhưng  chị vẫn không nguôi hướng tới “cái mong manh”. Điều đó làm nên bản sắc thơ Lê Khánh Mai.
          Tôi không nghĩ rằng Lê Khánh Mai không  dám và không thể bứt phá vì đã chọn “cái vững bền”, đã chọn “bổn phận” và bị ngợp trước “bao đền đài thơ sừng sững”. Tôi thấy Lê Khánh Mai có những lúc không tự tin, tự ti như  những câu thơ đã dẫn ở trên. Nhưng chị không hề có tư thế lép vế.
          Bao đền đài thơ sừng sững
          ta gieo xác chữ ích gì
                    Nhà thơ nữ bứt phá
Tôi muốn hiểu và muốn mọi người hiểu các nhà thơ nữ không làm việc vô ích là gieo xác chữ trước các đền đài thơ sừng sững. Nghĩa là họ sẽ  gieo gặt những mùa thơ mới, sẽ xây những đền đài mới của riêng mình. Câu thơ đó là một khẳng định quyết tâm bứt phá. Cũng như tôi tin tưởng rằng : “Những câu thơ/ như chú ngựa bất kham nơi lồng ngực/ mơ một ngày tung vó thảo nguyên  ( Khát) không có bất cứ lí do gì  để coi đó chỉ là giấc mơ. Những chú ngựa ấy đã tung vó trên những thảo nguyên thơ có tên Cát mặn, Đẹp, buồn và trong suốt như sương Giấc mơ hái từ cơn giông.
          6. câu thơ nghẹn lại nửa chừng
          chồng chất lo âu, vất vả nhọc nhằn
          manh áo miếng cơm xoay vần chóng mặt
          những trách móc giận hờn thường nhật
          ta đánh mất tình yêu, đánh mất chính mình
                                      Đời thường
Chính khi  tưởng là đánh mất ấy, Lê Khánh Mai đã tìm thấy mình, tìm thấy tình yêu. Và những câu thơ nghẹn lại nửa chừng kia đã được sinh thành, hồng hào, khỏe mạnh. Thơ của Lê Khánh Mai là thơ của đời thường muôn mặt với  chiến tranh, mất mát, nghèo khó, vất vả lo âu, vật lộn, bươn chải, nắng sương, mưa dầm, giông bão và niềm hạnh phúc  chắt ra từ cay đắng nhọc nhằn. Vì thế thơ chị không phải là  tình ca, anh hùng ca,  hoặc  sầu ca hay bi ca. Đó là bài ca cuộc sống “vút lên lóng lánh vui buồn trần gian” ( Đêm sông Hậu nghe đờn ca tài tử).
                                     
                                                     Hà Nội, cuối tháng 11/2008
                                               


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét