VÚT
LÊN LÓNG LÁNH VUI BUỒN TRẦN GIAN
Vũ Nho
1. Lê Khánh Mai là một cây bút nữ đắm say, bền bỉ, chung thủy với thơ ca. Và
chính sự đắm say, bền bỉ, chung thủy đó đã được đền đáp. Đam mê thơ, cần mẫn
sáng tạo, trăn trở đổi mới, khát khao bứt phá và hoàn thiện đã tạo cho thơ chị một gương mặt, một giọng điệu
riêng.
Thường thì các nhà thơ, nhất là các
nhà thơ nữ ngày nay, hay viết về cái tôi thân phận cá nhân của mình. Đó vừa là
xu hướng hướng nội ( để khắc phục tình trạng toàn hướng ngoại một thời), vừa là
khát vọng bộc lộ, khẳng định cái “tôi” của người viết. Lê Khánh Mai cũng thế nhưng
không chỉ có thế. Làm thơ từ thời sinh viên, xuất hiện khá sớm trên thi đàn (
năm 1984 với tập thơ in chung Dòng sông
khoảng đời), Lê Khánh Mai thể hiện một bút lực dồi dào với đề tài thơ phong
phú và đa dạng. Có thể nói Lê Khánh Mai là một trong số không nhiều cây bút
nữ có thành tựu cả ở ba lĩnh vực truyện
ngắn, tiểu thuyết và thơ; trong đó nổi trội nhất là thơ. Chị đã từng phát biểu
về tính cách miền Trung :
“Chắt
chiu mà rộng mở, đằm sâu mà mạnh mẽ, bộc trực mà ân tình, đam mê mà tỉnh táo,
ẩn nhẫn mà vượt thoát” (Tạp chí Thơ số 23, 5/2005). Tôi nghĩ, thơ Lê Khánh
Mai là một trong những thể hiện tiêu biểu và sinh động của tính cách ấy.
Xuyên suốt 7 tập thơ đã in của Lê
Khánh Mai là tình cảm đằm sâu ân tình với quê hương đất nước, ám ảnh thân phận
đàn bà và khát vọng thơ ca, trăn trở về vận mệnh thơ, sự đa đoan của trái tim
thi sĩ.
2. Sinh ra ở miền Nam, lớn lên trên
đất Bắc, trở về xứ Trầm Hương trong
những ngày đất nước đầy rẫy khó khăn sau khi thống nhất, Lê Khánh Mai có tuổi
thơ và tuổi thanh xuân thấm đẫm gian nan, vất vả. Chị “sinh ra từ bùn” trên cánh đồng chiêm, lớn lên trong hoàn cảnh gieo neo đặc biệt:
ám
ảnh đêm dài cơn mơ chăn nệm
căn
nhà tập thể chín mét vuông
tôi
chen nhau với sách vở đèn dầu, chai lọ
Mẹ
tôi gương mặt mùa đông góa bụa
thức
dậy bốn giờ sáng, ra đi hun hút gió
đón
chuyến xe đầu ngày
cà
mèn cơm rau muốn, đậu phụ bữa trưa công sở
Tuổi
thơ tôi côi cút co ro
Hà Nội mùa đông đầu
thế kỉ
Phải
chăng vì thế mà Lê Khánh Mai luôn biết ơn mẹ, biết ơn cuộc đời, biết ơn những
vùng đất đã đùm bọc, cưu mang? Và đồng thời chị cũng biết chắt chiu, nâng niu
những hạnh phúc đơn sơ, niềm vui nho nhỏ từ cuộc đời bề bộn vất vả, gian lao?
Những câu thơ về quê hương Tu Bông
nhiều gió “Con gái Tu Bông suốt ngày tóc
rối/ Người dân gồng mình đỡ cơn gió xối”; về xứ Trầm Hương “ Lặn vào giông bão thầm thầm tỏa hương”;
về Hà Nội “tuổi thơ ở lại”; về Nha
Trang “ căng mình trước đại dương/như
vồng ngực trần của chàng trai vạm vỡ/ kiêu hãnh và trẻ trung trong nắng gió mặn
mòi” là những câu thơ tràn đầy tình
cảm được viết ra từ “một tình yêu suốt
đời mắc nợ”.
Thơ Lê Khánh Mai trân trọng, nâng niu
những hạnh phúc đơn sơ, vì đó là niềm “ hạnh
phúc chắt ra từ cay đắng, nhọc nhằn” ( Vòm trời cổ tích). Niềm vui, hạnh
phúc đó có thể là trong gia đình nhỏ bé của chị:
Nhà
ta nghèo nhưng đầy ắp niềm vui
mái
dột, trời mưa, xoong chậu đem ra hứng
con
ướt át lấy đũa khua chiêng trống
hát
nghêu ngao chẳng ra cuối ra đầu
Chàng trai của mẹ
Đó
có thể là niềm vui của những người đàn
bà bình thường tất tả mưu sinh:
Những
người đàn bà tong tả gánh gồng
ngược
xuôi buổi chợ
quán
nhỏ xiêu nghiêng
mời
mọc những buồng dừa trĩu quả
như
bầu vú mơn mởn, tươi non
Ninh Hòa đoản khúc
Đó
là niềm vui như hội trong ban mai của
người đàn bà xứ biển, của những dân chài với mất ngủ, với nụ cười nhễ nhại:
Người
đàn bà xứ biển hằng đêm mất ngủ
đợi
chồng về từ phía hừng đông
bến
cá mỗi ban mai mở hội
tấp
nập thuyền ghe, nhễ nhại những nụ cười
Nha Trang của tôi
3. Thơ Lê Khánh Mai thường đề cập đến
bổn phận, thân phận, số phận của kiếp đàn bà, của chiếc lá, hạt cát, bông hoa-
những vật mỏng manh, nhỏ bé gần với đàn bà. Có đến hơn hai mươi bài thơ trong
số một trăm lẻ bảy bài trong tập Giấc mơ
hái từ cơn giông nhắc đến từ phận.
Đây là vài ví dụ:
Đàn
bà
đôi
vai oằn bổn phận
chông
chênh đỉnh cô đơn
Bổn phận
Mang
thân đàn bà phận lá
nào
ai lường hết nẻo tình
đã
đau đến cùng sỏi đá
thì
thôi mình thương lấy mình
Bạn gái
Đau
chi thế thái nhân tình
Nhỏ
nhoi hạt cát phận mình mà thôi
Ru trái tim buồn
Câu
thơ nước chảy bèo trôi
Vẫn
nghiêng về phía phận người khổ đau
Hương cỏ
Đức
tính của phụ nữ Việt Nam là nhẫn nhịn, hi sinh. Yên phận, cam phận thành ra một
nết đẹp buồn. Đầu thế kỉ XX, bà Tú Xương là một ví dụ :
Một
duyên hai nợ âu đành phận
Năm
nắng mười mưa dám quản công
Thương vợ
– Tú Xương
Nói
nhiều đến bổn phận, sự cam phận, nhưng Lê Khánh Mai không ca ngợi bổn phận như
là ưu điểm : “ bổn phận là cánh buồm / mắc cạn / mòn đời ngưỡng vọng khơi xa…Một ngày
kia/ ta về nơi gió cát/ không để lại dấu vết/ bổn phận nhạo cười tiễn đưa ta”
(Bổn phận). Nhà thơ cũng mạnh bạo và đầy tính thuyết phục nói đến nỗi đau không thể hóa đá của những phận đàn bà:
Xứ
sở này liên miên chiến tranh giặc giã
cổ
tích hàng thiên chẳng ghi hết nỗi buồn
trùng
trùng đá không tạc nổi bao đợi chờ, chia li truyền kiếp
cô
đơn đến kiệt cùng có hóa đá được đâu
đàn
bà vẫn phải đau
nỗi
đau của hình hài xương thịt
hồn
vọng phu mòn mỏi xác thân phàm
Kiếp vọng
phu
Chị
thấy phận mình trong thân phận của những người cùng giới, nhưng người oằn bổn
phận trên vai; nhưng không cam phận, vượt lên số phận, vượt lên hoàn cảnh, hi
sinh, nhận lấy phần thua thiệt để đem niềm vui, hạnh phúc cho mọi người, như
loài trai biển “đau kia kết ngọc/ cho
người long lanh” ( Nỗi niềm).
Có nhiều hình ảnh người đàn bà trong
thơ Lê Khánh Mai. Người đàn bà bán rau, người đàn bà “ hát ru thầm một kiếp vùi quên”, người đàn bà lặng im như cát, người
đàn bà đi chợ, người đàn bà làm thơ “ ngày
ngày cày trên trang báo/ câu thơ yểu mệnh đêm trường”, người đàn bà vọng
chồng hóa đá, người đàn bà “đã chờ con
suốt hai mươi lăm năm/ và sẽ chờ mãi mãi”,… Không chỉ có nhận thức sâu sắc
về bổn phận, mà còn có sự cảm thông chia sẻ với “phận người khổ đau”. Và hơn thế nữa, Lê Khánh Mai tôn vinh, ca
ngợi họ.
“ Cánh
buồm” là bài thơ độc đáo ca ngợi người đàn bà sinh nở, ca ngợi vẻ đẹp và
thiên chức làm mẹ. Bài thơ gợi nhớ đến truyện ngắn nổi tiếng của M. Gorki “ Một con người ra đời” nhưng nhà thơ nữ
thiên về ca ngợi vẻ đẹp chứ không nhấn mạnh sự đau đớn, niềm vui làm mẹ và
“chức vị làm người”:
Người
đàn bà trong cơn đau sinh nở
đẹp
như một thiên thần
Không
điểm phấn tô son
chẳng
lượt là khăn áo
chị
chín đầy như hoa trái mùa xuân
Cánh buồm
Lê
Khánh Mai ngưỡng mộ Xuân Quỳnh, đã làm luận văn thạc sĩ về thơ Xuân Quỳnh. Và
chị đã viết thật sâu sắc, cảm động về bàn tay của nữ nhà thơ, cũng là bàn tay
tảo tần của phụ nữ Việt Nam mọi thời đại:
Bàn
tay gài khuy áo cho chồng
khép
cửa phòng khi trời trở gió
vỗ
giấc con thơ, nhặt rau nhóm lửa
tất
bật sớm chiều, giặt giũ, vá may
rồi
bàn tay cuống quýt nắm bàn tay
để
yêu thương khi yên ngày thác lũ
Bàn
tay viết những câu thơ bão tố
về
khát vọng tình yêu
Bàn tay chị Xuân Quỳnh
Chúng
ta thấy thấp thoáng bóng dáng bài ca dao Mười
tay trong sách giáo khoa, nhưng có lẽ người đọc cũng hiểu như tôi rằng bàn
tay nhà thơ Xuân Quỳnh ngày ấy cũng là hình ảnh bàn tay tảo tần của người viết
bây giờ…
4. Cũng như nhiều người làm thơ, Lê
Khánh Mai có ý thức chia sẻ với bạn đọc về ý nghĩa của thơ ca, về những nỗi vất
vả gian nan của người thơ, và một chút riêng tư thi sĩ.
Với người làm thơ, thơ không là cơm
ăn, không là nước uống, không là tiền bạc. Thơ không là vật chất, nhưng thơ có
sức mạnh nâng đỡ, cứu rỗi con người:
Khi
tôi rơi xuống hố thẳm khổ đau
thơ
vực tôi đứng dậy
Tôi và thơ
Thơ
cũng không phải là mảnh đất mỡ màu, càng không phải trò chơi con chữ, thơ đòi
hỏi sự hi sinh:
Trả
giá một đời chỉ gặt hái đôi câu
Buồn
vui của thơ là buồn vui của đời, nhưng đem được những vui buồn đó đến cho bạn
đọc không phải là một công việc dễ dàng:
Mỗi
câu thơ mang bóng dáng nụ cười
hay
nước mắt buồn đau số phận
tôi
đã đổi bằng bao cay đắng
có
khi như vắt kiệt chính mình
Tâm sự thơ ca
Nhà
thơ cũng cho bạn đọc thấy những thoáng chốc riêng tư của một tình cảm âm thầm:
Em
ngồi hóa núi lặng thinh
nghiêng
thẩm biển cạn, vọng tình thẳm xa
Vọng
Một
xao xuyến bâng khuâng:
Người
còn giữ lửa chung tình
để
ta ươm bão ủ xanh đợi mùa
Đợi mùa
Một
chiêm nghiệm về tình ái:
Rằng
yêu là cái nghiệp đời
càng
mê mẩn lắm, càng rời rã đau
Ơi
người
Một tâm sự
gần như tự thú:
- Em
khát sống
những
gì chưa kịp sống
và
vội yêu
những
gì chưa được yêu
em
thất thường, nắng sớm mưa chiều
và
hoang tưởng như cầu vồng bảy sắc
Khát
- Anh,
người đàn bà ấy và em đều biết mình vô lí
nhưng
chúng ta từ chối giải thoát mình
Nhận diện một tình
yêu
Những
câu thơ tình yêu của Lê Khánh Mai là những lời giãi bày, sẻ chia chân thành của
một “trái tim chớp bể mãi còn đa đoan”.
5.Là người đắm đuối với thơ, một cây
bút có tính chuyên nghiệp cao về thơ, Lê Khánh Mai thường trăn trở suy nghĩ về
phận thơ, phận người sáng tạo. Chị không giấu niềm băn khoăn:
Chết
vùi đi hay là thắp lửa
Đơn
giản vô cùng sao cứ mãi phân vân
Khát vọng
Tất
nhiên , băn khoăn, phân vân, nhưng chị đã chọn thắp lửa, đã chọn cháy lên, chọn
“vắt kiệt mình để nuôi một giấc mơ”(
Giấc mơ tôi hái). Người viết thường phải có cao vọng, có khát vọng ( và không
tránh khỏi nhiều khi là ảo vọng). Lê Khánh Mai cũng vậy. Hơn một lần chị nói
với người cha đã khuất: “ Trong con một
niềm tin bất tuyệt/ con sẽ hái những vì sao xa lắc/ bởi vì có cha nâng cánh cho
con” ( Cha ơi!). Khát vọng của chị hướng lên vời vợi chốn cao xanh, hướng xa thăm thẳm ngàn khơi, hướng tới xa tít chân
trời màu lam:
Thắp
lên niềm kì vọng bầu trời
tôi
kí thác hồn mình nơi cao xanh vời vợi
Tâm
khúc
Tuy
nhiên, sự mãi phân vân trong tình cảm là có thật. Bởi thế mới có một hiện
tượng như là mâu thuẫn. Khát vọng hái vì sao xa lắc, khát vọng thắp lên niềm kì
vọng bầu trời, nhưng khi tỉnh táo, lại
có cảm giác tự ti về thân phận:
- Có
ta trời thản nhiên xanh
Không
ta mây trắng yên lành vẫn trôi
Đơn sơ
- Tôi
là ai
Bạn
là ai
chỉ
như khói thoảng sương bay thôi mà
đường
về La Mã vời xa…
Ơi người
- Nhà
thơ, thi sĩ, thi hào
những
danh hiệu cao vời
xin
dành cho tiền nhân, hậu thế
ta-
người thơ tỉnh lẻ
Uống rượu với bạn thơ Đăk Lăk
Hình
ảnh con thuyền nhỏ hay cũng chính là phút nản lòng của người ôm hoài bão lớn
lao : “ Và run rẩy/ úp vào ngực cát/ khóc
một niềm vô vọng ngàn khơi” (Con thuyền nhỏ).
Muốn bứt phá, muốn “sống vượt mình”,
muốn “quên mình là đàn bà” nhưng lại vấp rào cản bổn phận, lại quay về với bình
yên ngày thường “ Cho em về nương tựa vào
anh/ nối kết buồn vui làm cánh võng”.
Yên ổn, để rồi sau đó lại “vẫn
khát viết vần thơ định mệnh” ( Khát).
Lê Khánh Mai từng hoài nghi, những
chính là khẳng định sự lựa chọn tỉnh táo của mình: “Có thể nào chạy trốn đời thường nhật/đánh đổi cái vững bền lấy cái mong
manh” ( Đời thường). Khát vọng bề cao, bề rộng, bề xa là có thật; khát vọng
khai mở những con đường là có thật. Nhưng đó là “cái mong manh”. Lê Khánh Mai
đã chọn “cái vững bền”, chọn “đời thường nhật” và tìm thấy hạnh phúc của mình,
nguồn thơ của mình ở đấy. Nhưng chị vẫn
không nguôi hướng tới “cái mong manh”. Điều đó làm nên bản sắc thơ Lê Khánh Mai.
Tôi không nghĩ rằng Lê Khánh Mai
không dám và không thể bứt phá vì đã
chọn “cái vững bền”, đã chọn “bổn phận” và bị ngợp trước “bao đền đài thơ sừng
sững”. Tôi thấy Lê Khánh Mai có những lúc không tự tin, tự ti như những câu thơ đã dẫn ở trên. Nhưng chị không
hề có tư thế lép vế.
Bao
đền đài thơ sừng sững
ta
gieo xác chữ ích gì
Nhà thơ nữ bứt phá
Tôi
muốn hiểu và muốn mọi người hiểu các nhà thơ nữ không làm việc vô ích là gieo xác chữ trước các đền đài thơ sừng
sững. Nghĩa là họ sẽ gieo gặt những mùa
thơ mới, sẽ xây những đền đài mới của riêng mình. Câu thơ đó là một khẳng định
quyết tâm bứt phá. Cũng như tôi tin tưởng rằng : “Những câu thơ/ như chú ngựa bất kham nơi lồng ngực/ mơ một ngày tung vó
thảo nguyên” ( Khát) không có bất cứ
lí do gì để coi đó chỉ là giấc mơ. Những
chú ngựa ấy đã tung vó trên những thảo nguyên thơ có tên Cát mặn, Đẹp, buồn và trong suốt như sương và Giấc mơ hái từ cơn giông.
6. câu
thơ nghẹn lại nửa chừng
chồng
chất lo âu, vất vả nhọc nhằn
manh
áo miếng cơm xoay vần chóng mặt
những
trách móc giận hờn thường nhật
ta
đánh mất tình yêu, đánh mất chính mình
Đời thường
Chính
khi tưởng là đánh mất ấy, Lê Khánh Mai
đã tìm thấy mình, tìm thấy tình yêu. Và những câu thơ nghẹn lại nửa chừng kia
đã được sinh thành, hồng hào, khỏe mạnh. Thơ của Lê Khánh Mai là thơ của đời
thường muôn mặt với chiến tranh, mất
mát, nghèo khó, vất vả lo âu, vật lộn, bươn chải, nắng sương, mưa dầm, giông
bão và niềm hạnh phúc chắt ra từ cay
đắng nhọc nhằn. Vì thế thơ chị không phải là
tình ca, anh hùng ca, hoặc sầu ca hay bi ca. Đó là bài ca cuộc sống “vút lên lóng lánh vui buồn trần gian” (
Đêm sông Hậu nghe đờn ca tài tử).
Hà Nội, cuối tháng 11/2008
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét