PHÍA GIÓ SƯƠNG LẶNG THẦM
THƯƠNG NHỚ
Đọc 2 tập thơ Hoa lối sau chùa
và Phía gió sương của Vương Tùng Cương*
Vũ
Nho
Cơn lốc đô thị hoá sau thời mở cửa đã
cuốn bao nhiêu người dạt lên thành phố. Họ bỏ lại dòng sông, cánh đồng, đất đai
thân thuộc về làm quen với nhà ống, đường nhựa, với cuộc sống sôi động, ồn ào,
bươn chải gian lao. Không phải là biệt xứ nước ngoài, nhưng họ vẫn là những
người lìa quê, bỏ làng, xa xứ. Họ tựa như “những đám mây lưu lạc. Tụ về từ
xa xôi” ( Gặp). Họ không nguôi nhớ chốn quê xưa vì “ Những ngày phố rát
sôi lửa nắng/ Mỗi bước đi trĩu nặng bão từ” ( Những ngày phố). Năm một vài
lần về quê, ở vài ngày, ăn vài bữa cơm lại càng làm cho nỗi nhớ thêm da diết: “
Những mùa quê thương nhớ/ Vời vợi xa sái lòng” (Mùa thương nhớ). Trong số
những người ấy, có một nhà thơ thân tuy về với phố, hồn vẫn còn chốn quê. Đó là
Vương Tùng Cương với nỗi niềm lặng thầm thương nhớ phía gió sương.
Vương Tùng Cương đã từng trải đời chiến chinh “ biền biệt
tháng năm viễn xứ”, từng lăn lộn những nẻo đường phố thị, từng hì hục gửi “Thông điệp từ đêm phố”, để rồi thấm thía
nhận ra rằng mình trước sau vẫn chỉ là một người quê “Khao khát chiều quê
thông thênh đồng gió”. Và khi năm
cùng, tháng tận, tết đến, xuân về thì tuy chung tâm trạng với Trần Huyền Trân**
nhưng lại nghiêng hẳn về đồng quê như một nơi trú ẩn vĩnh viễn của hồn mình: Giá
rượu bia thì đắt/ Rau rẻ đến ngậm ngùi/ Nghe phố phường sắm tết/ Thương quá
đồng quê tôi” ( Rau tết).
Vương Tùng Cương đã viết về đủ thứ:
tình bạn, tình yêu, trung du, rừng, biển, thế sự, thù tạc... Nhưng có lẽ đọng
lại chút gì ở người thi sĩ này thì chính là những câu thơ về miền quê lặng thầm
thương nhớ trong anh. Đó là thơ của anh thi sỹ quê đồi “ Thơ tảo tần khoai
lúa khôn nguôi” ( Thi sĩ quê đồi). Cái mối cảm tình ấy lúc nào cũng dào
dạt, nồng nàn, nhưng lại được thể hiện khá khuất nẻo, kín đáo. Nó là thứ hoa
gạo son dâng lửa, nhưng không phải của cây gạo giữa đồng, cây gạo cạnh ngã ba, cây gạo trên sườn dốc, mà là cây gạo
sau chùa ẩn dật : “ Hoa như đổ phẩm lối sau chùa” ( Chùa Bổ Đà).
Quê hương trong anh là Làng xưa,
là Đồng sương, là Nhã Nam chợ núi, là Mùa quê
thương nhớ, là Hội hát đợi em, là Tháng mười sương
giăng, là những kí ức tuổi thơ mờ tỏ: Bát cơm đỏ tôm riu/ Bưng rong
ngoài ngõ nắng/ Ngóng mẹ trưa xế bóng/ Gặt qua chiều đồng xa ( Mùa quê
thương nhớ). Không chỉ là những hình ảnh đẹp, mà còn là cả những kí ức thấm
buồn của một vùng hoang vu sơn cước đói nghèo: Những mái nhà hắt hiu tranh
nứa/ Quanh lửa sàn khuya trầm lặng người già/ Lũ trẻ cời than lục vùi khoai
sắn/ Bữa đói chiều hờn dỗi cả trong mơ ( Lửa rừng xưa). Quê hương là mẹ,
người mẹ đi cấy “nón chấm bùn” xa xót
lòng con : “ Lặng mơ hình bóng mẹ/ Gập lưng nón chấm bùn/ Dảnh mạ gầy tháng
chạp/ Cấy buốt mùa gió sương” ( Đồng sương). Quê hương ấy là những người
phụ nữ trồng rau tảo tần, chân trần gánh rau, gánh bao nhiêu vất vả lo toan : “
Sà sã đôi vai em/ Bàn chân trần nẻ miếng/ Gánh cả mùa gió sương/ Rét lùa
manh áo mỏng” ( Rau tết). Quê hương là “ những âm thanh làng thức với
sao khuya”. Tiếng tằm ăn dâu, tiếng sa quay, tiếng con trẻ nô đùa và bao
thứ tiếng thân quen : “ Gà gáy loang dần/ Chó sủa bóng xa/ Đêm trở giời cá
động ao bì bõm/ Nghe hoang vắng tiếng vạc xa tìm bạn/ Người kéo vó khuya ho
húng hắng tuổi già”
(
Làng xưa). Quê hương là con đường chợ
Nếnh với niềm vui con trẻ được theo bà đi chợ, được ăn quà, lại còn có bánh đa
mang về nhà thay nón mũ : Chiếc bánh đa đội đầu che nắng/ Dọc đường về chân
sáo hồn bay” ( Chợ Nếnh)...
Đăm đắm với quê nghèo như thế, nên
những mảnh đời lam lũ, những con đường “bụi nhuộm đỏ cây”, “bụi nhuộm đỏ
người”, những em bé đánh giày đường phố, những em bé hái măng “ tháng ngày
đắng hơn măng đắng” dễ làm thi sĩ mềm lòng. Những câu thơ này cứ như khía
vào tâm trí người đọc :
“ Những
mầm măng chưa đầy tháng đã lìa rừng/ Các em bán măng tuổi vỡ lòng nhỡ học/ áo quần nhàu nhĩ phong phanh/ Những áo măng
như tã lót trẻ sơ sinh/ Chợ Mường lay các em về xốc xếch, bình minh” ( Măng
đắng).
Không còn nghi ngờ gì, cái bài thơ quê hay
nhất của Vương Tùng Cương là bài thơ Rau tết. Ở đây tình quê, nỗi quê,
hồn quê, đã tìm được sự hoà hợp đặc sắc trong một hình thức giản dị :
Giờ cuối tháng chạp rồi/ Rau xanh
rờn gió bấc/ Rau đỗ đầy bến nước/Rau giăng hàng chợ phiên// Sà sã đôi vai em/
Bàn chân trần nẻ miếng/ Gánh cả miền gió sương/ Rét lùa manh áo mỏng// Bàn tay
em vun nắng/ Cải lên ngồng đơm hoa/ Chắt chiu từng hạt giống/ Mùa rau xanh đồng
nhà// Giá rượu bia thì đắt/ Rau rẻ đến ngậm ngùi/ Nghe phố phường sắm tết/
Thương quá đồng quê tôi.
Một đời viết mà viết được một bài thơ
về quê hương như thế cũng đáng để nâng chén, nhâm nhi mà tuyên bố xanh rờn : “Thôi...an
bài số phận mình thôi” ( Tự bạch).
Hà
Nội, 10/9/06
--------------
*)
Hoa
lối sau chùa, nxb Văn hoá thông tin,
1999.
Phía
gió sương, nxb Hội nhà văn, 2005.
**)
Bóng đơn đi giữa kinh thành
Nhìn duyên thiên hạ, nghe tình người ta ( Tương tư)
Cảm ơn Bác Vũ chăm chỉ điểm văn. Cho chúng em, những người già,
Trả lờiXóanguôi ngoai nỗi nhớ xưa.
Bát cơm đỏ tôm riu
Bưng rong ngoài ngõ nắng
Ngóng mẹ trưa xế bóng
Gặt qua chiều đồng xa...
Cảm ơn tác giả Phía gió sương!
Khà khà khà!
Trả lờiXóaÔng bạn khen chăm chỉ làm tôi sung sướng quá. Mỗi ngày một bài viết của mình hoặc của bạn bè. Vì vậy ngày nào quán cũng có món mới phục vụ khách. Bây giờ nhà thơ Vương Tùng Cương ở Đà Lạt rồi. Chắc không biết địa chỉ Blog này để sẻ chia sự đồng cảm của VanPham!