LANG
THANG CÙNG NGUYỄN ĐỨC THIỆN
Đọc tập thơ Lang thang của Nguyễn Đức Thiện
Vũ Nho
Nếu cứ theo từ điển duy danh định
nghĩa, lang thang nghĩa là “đến chỗ
này rồi lại bỏ đi chỗ khác, không dừng lại ở một chỗ nào nhất định” thì cuộc
đời của Nguyễn Đức Thiện không thể gọi là
cuộc đời lang thang, gọi là lang bạt cũng
lại càng không ổn. Thực ra thì anh làm việc ở Thái Nguyên, có đi bộ đội một thời gian (1972-1976) rồi quay lại
Thái Nguyên. Từ 1986 anh vào tuốt Tây Ninh và định cư miết ở đó cho đến giờ.
Như vậy, Nguyễn Đức Thiện sống rất ổn định ở hai địa điểm trên hai miền đất
nước chứ đâu có lang thang, lang bạt, trừ
thời gian ngắn anh làm phóng viên cho Quân đoàn 2.
Nhưng lời đề từ của tập thơ, cũng như trên Blog cá
nhân, Nguyễn Đức Thiện chọn mấy câu như là một tuyên ngôn sống, tuyên ngôn viết:
Ta
xé thân ta thành từng mảnh
Ném vào đời
Cho trọn cuộc lang thang
Như
vậy “lang thang” và cuộc “xé thân”
phải được hiểu theo nghĩa bóng. Mà nếu hiểu theo nghĩa ấy thì Nguyễn Đức Thiện
quả là một cây lang thang, một nghệ sĩ lang thang thứ thiệt. Anh lang thang với
những mảnh đời khác nhau của 7 tập truyện ngắn đã in. Anh lang thang với những
số phận của một loạt các nhân vật khác của 7 tiểu thuyết đã in. Anh lang thang
trong những thước phim truyền hình Tây Ninh, trong những truyện phiếm, trong
tập thơ Lang thang và trong cả những bài anh viết cho bè bạn…Anh đã
lang thang những vùng đất, vùng trời,…nhưng lang thang nhiều nhất là “Lang thang vào cõi lòng người” ( Lang
thang).
Không theo dõi nhiều, nhưng được biết
Nguyễn Đức Thiện đến với thơ muộn. Có thể nói là khá muộn so với văn xuôi.
Không phải vì căn cứ trên bài ghi năm
tháng sớm nhất là 1994 ( Không đề trang 93) và 5 bài có năm tháng cụ thể cùng được viết tháng
2/2004, mà chủ yếu căn cứ vào giọng điệu và những chi tiết thơ, những trải
nghiệm của người cầm bút. Ngay mấy dòng giản dị này cũng cho thấy định hướng
của anh:
“Tôi
không có ý định xếp hàng trong dòng người làm thơ đông không kể xiết. Người làm
thơ có nghề và không có nghề” ( Hy vọng). Cứ vào những gì đã viết, đã in
của Nguyễn Đức Thiện, có thể thấy văn xuôi mới là điều mà anh đeo đuổi suốt
đời. Từ thời tập viết trẻ trai cho đến khi
thành danh, rồi đến khi ngậm ngùi “ Thôi đành xa mái đầu xanh” ( Tóc
bạc), Nguyễn Đức Thiện vẫn cặm cụi, kiên
trì, bền bỉ với văn xuôi. Không có ý định làm thơ, nhưng cuộc đời từng trải,
nhiều va đập, đủ buồn vui, cười khóc “ Đã bao lần cười khóc trong mưa/ Buồn tầm tã/
Sầm sập vui/ Có cả” ( Mưa) đã tự nó thành thơ. Đúng như nhận xét của thi sĩ (đã quá cố) Trịnh Thanh Sơn :
“Thơ
Nguyễn Đức Thiện là thơ của một cuộc đời từng trải, ngụp lặn nhiều lần qua
nhiều bến đục, bến trong, để cuối cùng
trở thành người đốn ngộ” (Nguyễn Đức Thiện kẻ lỗi hẹn sẽ về). Những trải
nghiệm đời sống, những cuộc lang thang bất tận vào cõi lòng người đã khiến
Nguyễn Đức Thiện phải tìm đến thơ. Mặc dù anh biết rằng đó là một công việc
chẳng dễ dàng gì:
Tôi
vật chữ của tôi ra mà mổ xẻ
Tìm cho mình một con chữ riêng riêng
Hi vọng
Anh
làm thơ vì thấy rằng viết truyện ngắn, viết tiểu thuyết, làm phim, viết truyện
phiếm…vẫn còn chưa đủ:
Giữa
đêm, giữa những người đang ngủ
Muốn gào lên thực to
Sợ người ta bảo mình điên
Muốn lặng câm nhưng bụng dạ cứ cồn cào
Dạ khúc 2
Anh
phải tìm đến thơ vì muốn nói công khai, dõng dạc những nỗi niềm chất chứa:
Việc
gì cứ phải thì thào
Gào lên một lần xem thử
Có chết được ai nào
Gió
Anh
phải viết thơ để nói to lên với mọi người rằng :
Ô
hay
Người sống bên nhau cứ làm nhau khổ
Khuất mặt thơm tho, gần bên nham nhở
Sao không như cánh rừng xanh, không
như dòng sông, không như biển cả…
Lời
cầu xin của kẻ này
Anh
phải làm thơ để đánh động những “ thản
nhiên” một cách vô cảm, vô lí:
Đường
phố ơi
Người cứ thản nhiên nằm
Cho người ta giẫm đạp
Đứa trẻ bụi đời sao cứ ngủ thản nhiên
Người bán hàng rong thản nhiên ngủ
thức
Lang
thang
Anh
phải mượn thơ ca để chống cách nhìn nhận mòn cũ theo thói quen, theo định kiến
:
Hoa
đâu có kém tươi
Vẫn hương thơm tung tỏa
Khi không có ánh mặt trời
Tiếng chim vẫn ngọt thế thôi
Có ngày không ánh mặt trời
Có thể
Vẫn còn nguyên tất cả
Có sao đâu
Khúc bình minh
Yêu
cuộc đời, yêu con người, yêu điều thiện, yêu sự công bằng, sự thẳng thắn, trung
thực nên Nguyễn Đức Thiện đến với thơ.
Càng đến với thơ, anh càng trăn trở, băn khoăn trước những mớ bòng bong
khó cắt nghĩa cuộc sống. Có những hoài nghi, chán nản, có tiếng thở dài,…nhưng bao trùm lên là một sự
lạc quan, một niềm yêu, một niềm tin vào Con Người.
Là người viết truyện ngắn, nên một số
bài thơ của anh mang dáng dấp truyện ngắn, ba bài thơ Mẹ, Khúc bình minh, Quê ngoại được anh lấy tứ viết thành truyện ngắn . Và anh cũng đem nhiều yếu tố truyện vào thơ. Chẳng
hạn các bài Thi sĩ, Gặp mẹ trong nghĩa trang, Nhà thơ,
Một ngày mưa. Có thể bắt gặp những
chi tiết truyện ngắn sống động trong thơ:
Bặm
môi – người nông dân
Chân bước thấp bước cao trên rãnh cày
nham nhở
Những giọt mồ hôi tứa ra bò theo những
nếp nhăn
Lõm tõm rơi xuống lớp bùn ngầu đục
Người nông dân
Em
nín thở
Làm thơ
Môi bụm chặt
Ngực căng
Sợ
Một tiếng thở dài làm bay mất thơ
Hình dung em
Hoặc
có khi gặp đoạn thơ đầy ắp những thông
tin-sự kiện:
Trinh
trắng ngắn không bằng cái tặc lưỡi
Bệnh viện rên lên quá tải
Báo chí mất nhiều trang
Loa phát thanh mất nhiều thời giờ
Truyền hình phải xóa hình
Khi nói chuyện yêu đương
Thời mở cửa
Ghế đá công viên
Mối liên hệ giữa thơ và truyện ngắn là mối
liên hệ đáng quan tâm ở Nguyễn Đức Thiện. Ngoài việc lấy tứ thơ viết thành truyện ngắn, đem các nhân
vật, chi tiết truyện vào thơ, Nguyễn Đức Thiện còn dùng thơ như là cách thức
ghi chép tư liệu, lưu giữ cảm hứng cho truyện ngắn. Trong một trao đổi qua thư
điện tử, Nguyễn Đức Thiện viết : “Có lúc
những ý tưởng, cảm xúc chợt ùa đến, văn xuôi không thể làm được việc ghi chép,
lưu giữ ý tưởng, cảm xúc đó. Vì vậy tôi mượn thơ để ghi lại. Dùng nó mà lưu lại
những gì đã thấy, đã xúc động để làm tư liệu cho văn xuôi sau này. Nhất là tôi
không có thói quen ghi chép khi làm nghề” ( Thư gửi ngày 19/6/2009). Điều này làm chúng ta nhớ đến cách làm tranh
của nhiều họa sĩ. Đi thực tế, họ kí họa đã, kí họa càng nhiều càng tốt. Rồi sau
đó mới từ những chất liệu phác thảo của kí họa mà dựng thành tranh. Tuy nhiên,
chỉ mới thấy trực tiếp ba truyện ngắn lấy tứ thơ để viết của Nguyễn Đức Thiện.
Trong khi đó anh đã in những bảy tập truyện ngắn. Nhiều truyện gân guốc, dữ
dội, ngồn ngộn những chi tiết sắc sảo. Phải chăng, thơ lúc ấy không phải chỉ là
tư liệu trực tiếp, mà nó còn là và chủ
yếu là tư liệu cảm hứng làm cho văn xuôi Nguyễn Đức Thiện thăng hoa?
Câu thơ Nguyễn Đức Thiện như là câu
nói chứ rất ít khi anh “bắt chúng thẳng hàng”. Những câu nói giàu thông tin,
nhịp điệu, phản ánh cái nhìn tinh nhạy, sắc sảo của người làm báo, viết truyện
có nghề nên có một vẻ riêng. Chúng có vẻ đẹp thô nhám và tươi ròng sự sống. Tất
nhiên, nếu chúng được tác giả tiết chế
hơn, gia công hơn thì sẽ càng tăng thêm
sức lôi cuốn, hấp dẫn.
Thơ Nguyễn Đức Thiện là thơ của người
sống hết mình, sống mãnh liệt, sống xả thân. Anh lang thang hồn người, hồn ta.
Anh lang thang để tìm ra chính mình. Tôi nghĩ rằng bạn đọc của anh phải đọc thơ
anh mới hiểu thấu được Nguyễn Đức Thiện trong những thể loại tiểu thuyết,
truyện ngắn, truyện phiếm…Những người nghiên cứu sự nghiệp sáng tác của Nguyễn
Đức Thiện nhất thiết phải đọc thơ anh. Đó là phần máu thịt của đời anh, đó là
phần “long lanh hồn người” mà anh kí thác.
Hà
Nội, mùa nóng 2009
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét